Thứ Tư, 17 tháng 12, 2014

Nền tảng của Đức tin_Thảo Luận 1: Bởi Pham  Thứ tư, 7/2/ 2007, 01:13

1-    Dựa trên nền tảng nào chúng ta có thể tin tưởng ngay cả bản văn Tân Ước khiếm khuyết nhất?
                                  
       Kinh thánh Tân Ước được hình thành từ sau khi Chúa Jésus về Trời.
       “Đức tin nơi Kinh Thánh Tân Ước được vững lập khi biết rằng dù là bản văn trong nhóm khiếm khuyết nhất cũng vẫn còn tốt, những chổ khác biệt chỉ là những chi tiết rãi rác. Những khác biệt chính giữa những bản dịch (tiếng Anh)…”(1)
       1-Nền tảng của Đức Tin:    
       Kinh thánh Tân Ước được hình thành từ sau khi Chúa Jésus về Trời.
       Trong Cựu Ước chữ “Đức Tin” xuất hiện không nhiều, nhưng xuất hiện rất nhiều lần trong Kinh Thánh Tân ước. Nghĩa thông dụng nhất của đức tin là: yên tâm tin cậy hay nương dựa vào.
       Đức Tin là điều ắt có, được đặt lên hàng đầu khi đến với Chúa Jésus “ Hể ai tin nhận Đấng ấy sẽ không bị hư mất, mà được sự sống đời đời” (Giăng 3:16b)
      Đức Chúa Jésus là đối tượng cho Cơ Đốc Nhân đặt niềm tin, là chổ nương dựa và tin cậy hoàn toàn.
     Đức Chúa Jésus là nền tảng cho chúng ta tin tưởng ngay cả bản văn Tân Ước khiếm khuyết.
         2 - Giải thích tại sao bản văn Tân Ước khiếm khuyết mà chúng ta lại tin:
        “ Nhưng ấy là bởi Đức Thánh Linh cảm động mà người ta nói bởi Đức Chúa Trời”(1 Phi 1:21).
        Các bản văn Tân Ước đều do các trước giả ký thuật lại lời của Chúa
       Chúa Jésus chưa hề viết chữ nào, mà Ngài chỉ dạy bảo bằng lời (Qua các bài giãng trên núi hay các ẩn dụ trong Phúc âm Mathiơ, Mác…) .
        Ngôn ngữ chính của Chúa Jésus là tiếng A-ram.
        Bản Kinh Thánh hôm nay chúng ta đang đọc là chữ viết của người Việt Nam (Từ lễ Ngũ Tuần, các Cơ Đốc Nhân đã muốn nghe bằng tiếng mẹ đẻ của mình các công việc diệu kỳ của Đức Chúa Trời (Sứ Đồ 2) (2).
      Như vậy phải trải qua mấy ngàn năm và bao nhiêu lần dịch thuật, chuyển ngữ cho nên “Kinh Thánh đã được sao chép rồi tái sao chép, in rồi tái bản ngôn ngữ của Kinh Thánh luôn luôn được cập nhật hóa” (2)
      Năm 1881, Westcott và Hort đã nói “tất cả những cái tương đối không quan trọng được để qua một bên, thì những chữ mà theo ý kiến chúng tôi là đáng nghi ngờ cũng khó có thể lên đến hơn một phần ngàn của toàn bộ Tân Ước.”
     Các khám phá mới đây xác nhận và củng cố thêm lời kết luận của Westcott và Hort : “Kinh Thánh Tân Ước đã được bảo vệ bởi các Tu Sĩ, học giả, bởi những người tuận đạo và Giáo Sĩ, bởi sự chép tay lại rất công phu và bởi sự ấn loát kỷ kưỡng . Những doạn văn quan yếu và biết bao nhiêu bản dịch. Lời của ĐCT được ghi chép bởi các Sứ Đồ đã được bảo tồn cẩn thận và chuyên cần phổ biến khắp nơi trên thế giới.
Mỗi Cơ Đốc Nhân đọc Kinh Thánh với lòng tự tin, biết chắc rằng đó là lời của Đức Chúa Trời.”(1)
Tham khảo
(1) trang 69, (2) trang 64  SGK Thánh Kinh Nhập Môn Viện UCC.
God Bless You
            Phạm

Về: Thảo Luận 1: Nền tảng của Đức tin...
Bởi Huynh - Thứ năm , 8 Tháng hai 2007, 10:33

Chào chị Phạm
Cách trả lời của chị không chỉ đầy đủ mà còn cho cả lớp thấy được một khía cạnh khác của chị về "nền tảng đức tin" dựa trên Kinh Thánh nữa. Cám ơn cách trình bày sâu sắc của chị.
Immanuel,

Về: Thảo Luận 1: Nền tảng của Đức tin...
Bởi Thiên - Thứ năm , 8 Tháng hai 2007, 07:13

 Chị Phạm   đã có những chứng cứ rõ ràng để xác nhận niềm tin vào Kinh Thánh Tân Ước một cách tuyệt đối, dưa trên:
   1)Chúa Jesus là đối tượng của niềm tin tuyệt đối
    2) Tân Ước là những ký thuật từ các sứ đồ ghi chép lại cuộc đời và những lời giảng dạy của trực tiếp của Ngài.
     3)Từ Đức Tin được lặp lại rất nhiều lần trong Tân Ước
     4)Kinh Thánh Tân  ước được hình thành  sau khi Chúa Jesus về trời.
  Tôi đồng ý với chị Phạm điểm thứ 1 & 2 - Còn điểm thứ 3 & 4 đúng, nhưng chứa đủ những yếu tố mang tính thuyết phục căn bản để có thể đặt niền tin tuyệt đối vào KT Tân ước. Có lẽ cần bổ sung thêm phần những "cột mốc" của  thời gian ( niên đại ) của những bản sao hay thủ bản là một trong những bằng cớ vững chắc để đạt niềm tin về tính xác thực của KT Tân Ước.
    Mong đợi được học hỏi thêm từ giáo sư và các bạn !

Về: Thảo Luận 1: Nền tảng của Đức tin...
Bởi Pham - Thứ năm , 8 Tháng hai 2007, 09:59

Chào anh Thiên
Tôi rất cám ơn anh đã có ý kiến cho bài làm. Anh có biết rằng bài làm nầy tôi làm từ lúc khoãng hơn 1g sáng , và hoàn thành khoảng gần 4g sáng giờ VN!!!.
Vì câu hỏi là Dựa trên nền tảng nào chúng ta có thể tin tưởng ngay cả bản văn Tân Ước khiếm khuyết nhất?
Dựa trên nền tảng nào?: Nền tảng đó là "Chúa Jésus", "là đá góc nhà" (Ê-phê-sô 2:20).
Anh ạ! theo tôi nghĩ câu trả lời ngắn gọn như vậy cũng đủ,
- 3) Từ Đức Tin được lặp lại rất nhiều lần trong Tân Ước (Tôi xin ghi thêm một số địa chỉ trong Kinh Thánh có từ đức tin như: Rôma 3:30-31; 14:1-4; - 1Cô 13:13; Hê 11:1; Giacơ 2:14 và ,22,24,26; Ê-phê-sô 2:8; Mat17:19; Tít 1:1; ...)
-  4) Kinh Thánh Tân  ước được hình thành  sau khi Chúa Jesus về trời.  (Câu nầy trong bài trắc nghiệm số 2 môn TKNM)
Anh Thiên ơi, tôi nghĩ đơn giản như trên, cho nên tôi dùng chứng cứ của chứng cứ là tôi đặt niềm tin vào bài học là đúng, cho nên tôi dùng ngay bài học để chứng minh cho lập luận của mình.
Anh nè! anh có sáng kiến "dùng cột mốc thời gian để chứng minh... thì có lẽ anh giúp tôi giải quyết khâu ấy quá "Anh tìm giúp tôi nha", vì tôi bây giờ là phải đi công việc xa rồi (không có chương trình đi Bình Phước nhưng giờ phải đi, nên tuần nầy tôi đã ... tìm không ra thời gian anh ạ, bằng chứng là tôi làm bài nầy trong lúc mọi người đang ngũ.
Vài dòng chia sẻ với anh nhé. Xin Chúa đồng hành cùng anh trong mọi lúc.
Thân mến. Phạm

Về: Thảo Luận 1: Nền tảng của Đức tin...
Bởi Hoang - Thứ bảy , 10 Tháng hai 2007, 10:32

Chào cô Phạm!!
Bài làm của cô thật rõ ràng, Hoang rất đồng ý với cô ở mục 1, là nền tảng đức tin là Chúa Giêxu. Tuy Kinh Thánh có nhiều bản dịch và được sao chép nhiều,  những khác biệt ấy chỉ do sự giải thích và lối hành văn của các dịch giả (TKNM trang 54), nhưng nền tảng đức tin của họ vẫn là Chúa Giêxu.
Cầu Chúa ở cùng cô!!

Về: Thảo Luận 1: Nền tảng của Đức tin...
Bởi Trần - Chủ nhật , 11 Tháng hai 2007, 08:34

Cô Phạm làm bài quá tốt, Hương đồng tình với Cô nền tảng của chúng ta là Kinh Thánh, là Chúa.

Về: Thảo Luận 1: Nền tảng của Đức tin...- Kính Nhờ MS... -
Bởi Pham - Chủ nhật , 11 Tháng hai 2007, 08:44

Chào các bạn Trn - Huỳnh - Hòang
Sau khi NH đọc bài của các bạn cùng chung thảo luận câu 1 NH đút kết lại rằng:
Dựa trên nền tảng nào chúng ta có thể tin tưởng ngay cả bản văn Tân Ước khiếm khuyết nhất?: LÀ: Nói theo nghĩa rộng là cả Kinh Thánh như vậy là có cả Tân Ước)
- Cả Kinh Thánh được sự "soi dẫn", là lời được "Thần cảm" bởi Đức Chúa Trời, có nghĩa không bao giờ sai trật nên chúng ta tin.
- Khiếm Khuyết là do ở con người sao đi, chép lại... chỉ đôi khi có khác nhau về văn chương cách diễn đạt của từng loại ngôn ngữ khác nhau mà thôi. Sự sai số không quá 1/1000!



Thứ Ba, 9 tháng 12, 2014

CẦN KÍCH CẦU TIÊU DÙNG HẠT ĐIỀU TRONG NƯỚC

Hiện nay, điều nhân và các sản phẩm chế biến từ hạt điều của Việt nam được xuất khẩu 40 quốc gia. Trong đó thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt nam là Hoa kỳ, Trung quốc, Hà lan, Canada, Vương quốc Anh, Ấn độ... Điều nhân của Việt nam chiếm 92% thị trường Úc. Nhưng tại nước nhà, người dân Việt nam vẫn chưa quan tâm đến mặt lợi ích khi sử dụng hạt điều làm thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, mà chỉ dùng như là thức ăn chơi.
          Bà Đỗ Thị Ngọc Diệp, Phó chủ tịch Hiệp hội Dinh dưỡng Việt Nam – Chủ tịch Hiệp hội dinh dưỡng TP.HCM – Giám đốc Trung tâm dinh dưỡng TP.HCM cho biết: "hạt điều là loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao. Thành phần dinh dưỡng chính của hạt điều bao gồm protein, lipid, carbohydrate, nhiều chất khoáng quan trọng như phospho, magie, calcium, kali, sắt… Nếu sử dụng với một lượng thích hợp, thay thế cho thực phẩm có nguồn gốc động vật hạt điều có thể góp phần vào việc phòng ngừa các bệnh mãn tính không lây như: tim mạch, đái tháo đường…, đồng thời phục hồi sức khoẻ cho người bệnh."
          Nhân hạt điều là một thực phẩm dạng khô, giàu năng lượng hơn hẳn các thực phẩm khác như ngũ cốc, thịt cá… Tính trên 100 gr, nhân điều cung cấp 550 – 600 kcal, trong khi ngũ cốc chỉ cung cấp 300 – 350 kcal, nhóm thịt cung cấp 150 – 200 kcal. Khoảng 80% lượng chất béo trong nhân hạt điều là chất béo chưa bão hòa, trong đó chủ yếu là axit béo Oleic tốt cho người có rối loạn mỡ máu, bênh tim mạch hay người bệnh đái tháo đường có kèm theo triglyceride máu cao dai dẳng.Với đặc điểm giàu chất đạm, thành phần chất béo không bảo hòa và có chỉ số đường huyết thấp, nhân điều không chỉ là thực phẩm bổ sung cũng như phối hợp với các thực phẩm khác để xây dựng thực đơn, chế biến món ăn cho người đái tháo đường, mà còn hứa hẹn nguồn nguyên liệu cung cấp chất đạm và các chất béo có lợi cho sức khỏe trong việc nghiên cứu và phát triển các thực phẩm chức năng.
          Thông tin trên được phổ biến tại Diễn đàn giá trị điều Việt Nam do Hiệp Hội điều Việt Nam tổ chức vừa qua tại TP.Hồ Chí Minh. Đa số các chuyên gia thị trường trong và ngoài nước, các doanh nghiệp cho biết sản phẩm hạt điều tiêu thụ chậm tại chính nơi nó được sản xuất và xuất khẩu lớn nhất trên thế giới, do hầu hết người dân Việt Nam vẫn chưa hiểu rõ về giá trị của hạt điều. Đề cập đến nguyên nhân người tiêu dùng trong nước vẫn chưa có thói quen dùng sản phẩm được chế biến từ hạt điều, TS Đinh Thị Mỹ Loan – Chủ tịch Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam cho rằng: "Sản phẩm vẫn chưa được quảng bá rộng rãi, chế biến còn đơn điệu, chỉ là điều rang muối, chao dầu, kẹo hoặc bánh có nhân điều. Để kích cầu tiêu dùng, TS. Đinh Thị Mỹ Loan cho rằng: "Các sản phẩm đưa ra bán theo kênh truyền thống hay hiện đại, các nhà sản xuất phải đáp ứng các tiêu chuẩn về nguồn gốc xuất xứ, bao bì mẫu mã cũng như chất lượng hàng hóa bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm và giá cả phải cạnh tranh, phù hợp với mức thu nhập của người dân Việt Nam. Về phương thức bán hàng cần khai thác thêm hình thức trực tuyến ngoài kênh chợ truyền thống và siêu thị, nhằm đáp ứng được yêu cầu hội nhập và kỷ nguyên số. Và ở cấp độ Nhà nước cần phải có chính sách, chiến lược phát triển dài hạn đối với sản phẩm hạt điều.
          Ông Nguyễn Đức Thanh – Chủ tịch Vinacas phát biểu: "Kế hoạch chiến lược của ngành điều sẽ đạt đến mức 10% tiêu thụ trong nước vào năm 2020. Thời gian tới ngành điều sẽ có nhiều hoạt động xúc tiến thương mại trên thị trường nội địa. Các doanh nghiệp cần đa dạng hóa sản phẩm, đa dạng hóa cách tiếp cận người tiêu dùng, phát huy hiệu quả của các kênh phân phối bán lẻ, đưa thông tin về giá trị dinh dưỡng của hạt điều đến với đông đảo người tiêu dùng trong nước và giá cả cần phải phù hợp với người tiêu dùng trong nước."

NGỌC HUỆ - DIỆP LỤC TỐ

Chủ Nhật, 7 tháng 12, 2014


Viện UUC 
Giáo sư: TVK, Ph.D.
Sinh Viên: PNH
Ngày 14/11/2014

DÀN BÀI
Phần I:
Đề tài 2 (Midterm paper: Topic # 2):
            Xin bình luận về giải đáp của tác giả Reddish (xem phía dưới) và trình bày lập trường của bạn về sự soi dẫn cùng suy nghĩ phương pháp khởi đầu nào là đúng cho giáo lý này.
            (Điểm thưởng) Trình bày một quan điểm về giáo lý soi dẫn khác so với của giáo sư Erickson và của tác giả Reddish.


Dẫn nhập
A/ Bình luận về giải đáp của tác giả Reddish
B/ Trình bày lập trường về sự soi dẫn
C/ phương pháp khởi đầu nào là đúng cho giáo lý này.? 
Kết luận
Phần II:
            (Điểm thưởng) Trình bày một quan điểm về giáo lý soi dẫn khác so với của giáo sư Erickson và của tác giả Reddish.
Quan điểm chân chính về sự Thần cảm 
Định nghĩa
Thư mục
CácWebsite

BÀI LÀM

Phần I:
Dẫn nhập

            "Trong Kinh Thánh La-tinh (vulgate), chép động từ inspiro dịch trong Sáng thế ký 2:7 "hà sanh khí vào" II Ti-mô-thê 3:16 "soi dẫn", II Phi-e-rơ 1:21 "cảm động"; và tiếng chỉ tên inspiratio dịch trong II Sa-mu-ên 22:16 "gió", Gióp 32:8 "hơi thở", Thi Thiên 18:15 "gió", và Công vụ các sứ đồ 17:25 "hơi sống". Bởi sự mở mang bảng kê danh từ thần học, chữ nầy được một nghĩa riêng về những người chép Kinh Thánh hoặc chính các sách đó. Các sách Kinh Thánh được gọi là soi dẫn (inspiratio) vì là kết quả nhứt định của Ðức Chúa Trời bởi những người được Ðức Chúa Trời hà hơi. Những người chép Kinh Thánh gọi là được soi dẫn có Ðức Thánh Linh hà hơi vào, nên kết quả các công việc họ vượt quá quyền loài người mà thành ra quyền Chúa."[1]
            Soi dẫn hay hà hơi thường được định nghĩa là một ảnh hưởng siêu nhiên tác động trên hành động của các người chép Kinh Thánh bởi Thần của Ðức Chúa Trời, và những lời chép đó kể là đáng tin cậy vì đến từ Chúa. Kinh Thánh được soi dẫn tức là công việc của Thần của Ðức Chúa Trời trên những người chép các sách Kinh Thánh để họ không chép tự mình song là đến từ Chúa và những lời chép đó Ðức Chúa Trời tỏ cho loài người biết bản thể, ý muốn, công việc cũng như mưu định của Ngài. Qua điều này người viết rất mong mỏi được học thêm để hiểu thêm về Chúa, về ơn thần hựu của Ngài, quyền năng và sự tể trị của Thiên Chúa. Ngài không chỉ là Đấng chí cao, mà cũng là Đấng chí cận, Ngài bày tỏ cho thế gian và từng cá nhân sự cứu rỗi của Ngài nếu đồng ý tiếp nhận sứ điệp của Kinh thánh và sở hữu cho chính mình. Chúa muốn bảo tồn sự khải thị của Ngài  nên cần phải soi dẫn cho các trước giả Kinh thánh dùng lời của con người cũng như chữ viết của con người ghi lại những điều gì nhận từ Chúa một cách không sai lạc. Đây là bài viết giữa khóa môn Thần học Hệ thống I, người viết trình bày theo đề tài gồm những phần sau đây:

A/ Bình luận về giải đáp của tác giả Reddish
            Mitchell Reddish cho rằng một phần khác biệt hiểu biết về sự soi dẫn của Kinh thánh khởi đầu từ cách thức nhìn vấn đề. Thường thì sẽ khởi đầu với Đức Chúa Trời là lẽ thật và không thể sai lầm. Giả thiết "Đức Chúa Trời là lẽ thật và không thể sai lầm" sẽ logic với lập luận theo Tam đoạn luận: Lời thật, của Đức Chúa Trời là lẽ thật, Thánh Linh của Đức Chúa Trời cũng là lẽ thật, cảm thúc (hay hà hơi, hoặc soi dẫn) cho người viết viết những lẽ thật theo sự dẫn dắt của Chúa nên Kinh thánh là viết Lời của lẽ thật, từ đó Kinh thánh là Lời của Chúa. Nếu Kinh Thánh được Đức Chúa Trời soi dẫn, thì Kinh Thánh sẽ dự vào bản chất của Ngài, là lẽ thật sẽ dẫn đến điều đúng và không sai lầm. Một Đức Chúa Trời toàn vẹn không thể tạo ra một Kinh thánh không trọn vẹn. Theo hiểu biết này, sự linh cảm bảo đảm rằng mọi dữ kiện sẽ không sai lầm – dù lịch sử, khoa học, điạ lý hay thần học. Trong quan điểm này thì có thuyết rằng Đức Chúa Trời đọc mỗi lời cho tác giả (con người) viết và họ chỉ thuần túy là người ghi chép. Reddish cho rằng quan điểm sự soi dẫn cho từng lời (verbal plenary) có hai lầm lẫn quan trọng: 
            * Thứ nhất, khi đọc Kinh thánh với sự phê bình (critical) cho thấy, Kinh thánh không hoàn toàn thoát khỏi sai lầm về lịch sử, điạ lý và khoa học. Nếu chỉ có nguyên bản là được soi dẫn, chứ không phải Kinh thánh trong dạng hiện tại, thì giáo lý soi dẫn không có hữu ích cho Cơ-đốc-nhân hôm nay.
            * Thứ nhì, với quan điểm soi dẫn cho từng lời là đặt trọng tâm (locus) của sự hà hơi ở nơi những người viết Kinh thánh. Nhiều tác phẩm Kinh thánh là sản phẩm của tiến trình dài bao gồm nhiều nguồn, nhiều chủ bút, và nhiều số bản của công trình. Kinh thánh, trong nhiều trường hợp, là sản phẩm của tập thể hơn là công trình của cá nhân tác giả. Thuyết thẩm quyền dựa trên đọc cho viết xuống (dictation) thất bại vì nó không được ủng hộ bởi chính bằng chứng từ Kinh thánh.
            Thật ra, giáo lý về sự soi dẫn không phải do các nhà thần học áp đặt cho Kinh thánh, mà trái lại, đây là sự dạy dỗ của chính Kinh thánh "...Cả Kinh thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn..." (2Tim 3:16). Một kết luận ra từ dữ liệu trong Kinh thánh, cũng giống như mọi nhân chứng khác Kinh thánh làm chứng cho chính mình, Khải 22:19, tóm tắt những lời Kinh Thánh chép về sự soi dẫn như sau: * Những người chép Kinh Thánh, khi nào nói đến, xưng rằng mình chép bởi quyền trực tiếp của Chúa. * Dẫn chứng rằng có cả những lời không phải chỉ những ý thôi, đều được soi (I Cô-rinh-tô 2:7-15). * Cả thái độ của Chúa Jêsus Christ đối với Cựu Ước, như lời Ngài phán tỏ ra, cả lúc trước khi chết và sau sự sống lại, chứng quyết lẽ thật và căn nguyên Cựu Ước là bởi Chúa, và Ngài chỉ rõ Ngũ Kinh thật thuộc Môi-se. * Khi hứa sẽ tỏ ra nhiều điều sau khi Ðức Thánh Linh đến (Giăng 16:12-15), Chúa dọn đường cho Tân Ước. * Những người chép Tân Ước vẫn coi Cựu Ước như có quyền và soi dẫn bởi Chúa.
            Reddish cho rằng cách giải đáp câu hỏi về soi dẫn là quy nạp (inductive), vì nên để cho bằng chứng của Kinh thánh định đoạt cái dạng và nội dung của giáo lý. Thật vậy, xưng nhận rằng Kinh thánh được soi dẫn là xác nhận rằng qua những tác phẩm này, con người đã gặp Đức Chúa Trời, Đấng bày tỏ chính Ngài cho dân sự và cộng đồng đã tạo ra các kinh thánh.
            Vế thứ hai của 2Tim 3:16 "...Có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị dạy người trong sự công bình". Lợi ích của Kinh thánh cốt ở trong sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, phục hồi, huấn luyện trong sự công chính, hầu cho tín hữu có kim chỉ nam của chiếc la bàn chỉ phương hướng đi cho đúng với những điều Kinh thánh dạy. Để có được khả năng, thành thạo, được trang bị hoàn hảo trong mọi lãnh vực để làm nên nhân cách hay bản thể của người ấy. Kinh thánh không phải để trưng bày mà Kinh thánh là Lời của Chúa là Đấng sống nên Kinh thánh thánh phải được dùng trong cuộc sống. Toàn câu Kinh thánh 2Tim 3:16 là lời chứng trong Kinh thánh dạy toàn thể Kinh thánh đã đến từ Đức Chúa Trời để chỉ cho con người cách sống theo ý Chúa.

B/ Trình bày lập trường của bạn về sự soi dẫn
            "Cả Kinh Thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình, hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời được trọn vẹn và sắn sẵn để làm mọi việc lành" (II Tim 3:16-17).

            Bởi Đức Thánh Linh cảm động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời. Sứ đồ Phao-lô xác định "Cả Kinh Thánh đều bởi Đức Chúa Trời soi dẫn..." (II Ti-mô-thê 3:16).  Như vậy, Đức Thánh Linh soi sáng, dẫn dắt để các trước giả viết một cách chính xác, vô ngộ sứ điệp Đức Chúa Trời ban cho họ, hầu truyền lại cho loài người.
            Một trong những bằng cớ chính xác chứng minh Kinh Thánh được soi dẫn là các lời tiên tri. Các lời tiên tri trong Cựu Ước về Chúa Giê-xu đã được ứng nghiệm trọn vẹn trong Tân Ước. Nhất là bốn sách Phúc Âm và sách Công Vụ Các Sứ Đồ luôn luôn lặp lại những chữ "để được ứng nghiệm lời tiên tri." Như Chúa Giê-xu giáng sinh bởi một nữ đồng trinh (Ma-la-chi 1:22-23), tại thành phố Bết-lê-hem nước Do Thái (Ma-la-chi 2:1-6). Lánh nạn qua Ê-díp-tô (Ma-la-chi 2:13-15), Chúa về Na-xa-rét (Ma-thi-ơ 2:13-15). Giăng Báp-tít dọn đường cho Ngài (Ma-thi-ơ 3:1-3), Chúa bắt đầu chức vụ (Ma-thi-ơ 4:12-16), chữa lành mọi tật bệnh (Ma-thi-ơ 8:17), giảng dạy một cách có quyền năng (Ma-thi-ơ 12:17-21; 13:14-15,35; 15:7-8). Vào thành Giê-ru-sa-lem (Ma-thi-ơ 21:4-5), Chúa bị phản bội (Giăng 13:18), bị bán với giá 30 miếng bạc (Ma-thi-ơ 7:9-10), chịu chết (Giăng 19:25,36-37) sống lại (CV 2:24-28), thăng thiên (CV 2:32-35).
            Bằng chứng sống động là kinh nghiệm của tín hữu trải qua mọi thời đại cho đến ngày nay. Hễ ai vâng theo lời Kinh Thánh mà ăn năn tội, tin nhận Chúa Giê-xu thì tội được tha linh hồn được cứu, được thánh hóa, được sự sống mới, có một đời mới. Mọi lời hứa của Chúa trong Kinh Thánh được ứng nghiệm cho họ, khiến họ giống "như cây trồng gần dòng nước, sinh bông trái theo thì tiết, lá nó cũng chẳng tàn héo" (Thi-thiên 1:2-3) hay giống "như cây trồng nơi bờ suối, đâm rễ theo dòng nước chảy, ngộ khi trời nắng chẳng hề sợ hãi, mà lá cứ xanh tươi, gặp năm hạn hán cũng chẳng lo gì mà cứ ra trái không dứt" (Giê-rê-mi 17:7-8). Kinh thánh ghi lại Lời Chúa, Ngài soi dẫn, giúp con cái Chúa sống kết quả, sung mãn mỗi ngày.
            Hiện nay 2Tim 3:16 "Cả Kinh thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn. Có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bằng" vẫn còn giá trị tin tưởng tuyệt đối. Điều này cũng cho thấy Đức Chúa Trời yêu ai thì Ngài yêu đến cuối cùng, Đức Chúa Trời là thành tín, Ngài luôn luôn giữ lời hứa của Ngài (Minh họa, Kinh thánh cho thấy sự ứng nghiệm qua lời của các tiên tri của Chúa, cụ thể là sự Giáng sinh của Chúa Jésus...). Chứng minh rằng sự soi dẫn của Chúa cho trước giả viết Kinh thánh, sự hà hơi biến những Lời thánh, ơn thần hựu của Chúa giữ gìn những Lời sống giúp cho những người được thánh hóa hiểu được những ý định của Ngài từ khi Kinh thánh được viết xuống cho đến hôm nay vẫn còn như ngày đầu, dù rằng Kinh thánh đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau, tái bản nhiều lần nhờ vào ơn thần hựu của Chúa bảo tồn Lời của Ngài.
           
C/ phương pháp khởi đầu nào là đúng cho giáo lý này.
            Mitchell Reddish cho rằng một phần khác biệt hiểu biết về sự soi dẫn của Kinh thánh là khởi đầu từ cách thức nhìn vấn đề. Thường thì sẽ khởi đầu với Đức Chúa Trời là lẽ thật và không thể sai lầm. Giả thiết "Đức Chúa Trời là lẽ thật và không thể sai lầm". Bằng phương pháp qui nạp với giả thiết "Đức Chúa Trời là lẽ thật và không thể sai lầm". Là phù hợp theo bằng chứng lập luận từ Kinh thánh đã tự biện minh qua câu Kinh thánh 1Ti-mô-thê 3:16, 17. Tuy nhiên, Kinh thánh cũng ghi lại những lời nói dối của Sa-tan (Sáng 3:4-5), nhưng Kinh thánh ghi thật chính xác. Kinh thánh cũng có một số câu trích của người chưa được cứu (Tít 1:12)...Nhưng sự đa dạng này được ghi lại thật rỏ ràng.
            "Dầu nhiều người theo nhiều quan điểm thần học khác nhau sẽ sẳn sàng nói Kinh thánh được soi dẫn (hay còn gọi là sự linh cảm, sự hà hơi), nhưng người ta thấy ít có sự đồng nhất về điều được gọi là sự soi dẫn, có người tập trung sự soi dẫn vào cho những trước giả; người khác tập trung vào các tác phẩm; lại có người khác qui cho người đọc. Có người liên hệ sự soi dẫn với sứ điệp tổng quát của Kinh thánh; một số khác thì liên hệ với các tư tưởng, lại có người khác nữa liên hệ đến những từ ngữ. Một số khác bao gồm cả tính không sai lầm, nhiều người khác lại không tin như vậy."[2]
            Thật sự, chúng ta cần Đức Chúa Trời hướng dẫn suốt đời, từ thuở thanh xuân cho đến lúc bạc đầu. Người viết Thi-thiên nói: “Đức Chúa Trời nầy là Đức Chúa Trời chúng tôi đến đời đời vô-cùng; Ngài sẽ dẫn chúng tôi cho đến kỳ chết” (Thi 48:14). Giống như người viết Thi-thiên, tín đồ Đấng Christ khôn ngoan không ngừng trông cậy nơi Đức Chúa Trời để được Ngài hướng dẫn.[3]
           
            KẾT LUẬN
            "Lòng khiêm nhường là đất mầu mỡ, là nơi phát triển phần thuộc linh và sinh ra trái của sự soi dẫn để biết phải làm điều gì. Lòng khiêm nhường cho phép tiếp cận với quyền năng thiêng liêng để hoàn thành điều cần phải được làm. Một người bị thúc đẩy bởi ước muốn được khen ngợi hay thừa nhận thì sẽ không hội đủ điều kiện để được Thánh Linh giảng dạy. Một người ngạo mạn hoặc để cho cảm xúc ảnh hưởng đến quyết định của mình thì sẽ không được Thánh Linh hướng dẫn một cách mạnh mẽ."[4]
            Phi-e-rơ cũng viết trong bức thư của ông và nói rằng, “Vì chẳng hề có lời tiên tri nào là bởi ý một người nào mà ra, nhưng ấy là bởi Đức Thánh Linh cảm động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời.” (II Phi-e-rơ 1:21). Đó là điều rất quan hệ để thấy rằng những tác giả viết Kinh thánh đều được cảm động bởi Thánh Linh của Đức Chúa Trời. Không những tư tưởng được soi dẫn, nhưng mỗi lời cũng được soi dẫn.[5]
            Kinh thánh như là kim chỉ nam trong chiếc la bàn, chỉ cho người ta đi đúng hướng, theo những lời dạy trong Kinh thánh. Nhưng phải có lòng mềm mại, khiêm nhường để nhận lãnh và làm theo. Tất cả những gì Kinh thánh được soi dẫn để viết một điều, đó là Đấng Christ. Mục đích tối hậu của sự soi dẫn là Nhưng các việc nầy đã chép, để cho các ngươi tin rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ, tức là Con Đức Chúa Trời, và để khi các ngươi tin, thì nhờ danh Ngài mà được sự sống. (Giăng 20:31)
            Phần II:
            (Điểm thưởng) Trình bày một quan điểm về giáo lý soi dẫn khác so với của giáo sư Erickson và của tác giả Reddish.
            Quan điểm chân chính về sự Thần cảm  [6]
            Định nghĩa: Sự thần cảm thiên thượng là sự làm việc của Đức Thánh Linh, để qua đó Ngài ban năng lực cho người nhất định nào đó nhận được sự khải thị từ nơi Đức Chúa Trời. Nhằm để nói hoặc viết ra qua ngôn ngữ và sắc thái riêng của họ, chính những Lời của Đức Chúa Trời mà không hề sai sót (2 Phi 1:21).
            Sự thần cảm nguyên vẹn: Hàm ý rằng mỗi phần trong 66 sách hợp tuyển thành Kinh thánh đều là công trình của sự thần cảm thiên thượng ở cùng một mức độ (2 Tim 3:16).
            Sự thần cảm từng lời: Hàm ý rằng sự thần cảm thiên thượng chạm đến từng lời trong Kinh thánh cho đến tận hình thái và chức năng ngữ pháp của nó (Ga-la-ti 3:16).
            Nhận xét:
            1/ Chỉ liên hệ với nguyên tác Kinh thánh, sự thần cảm thiên thượng chỉ liên quan với sự bày tỏ nguyên thủy và văn bản nguyên thủy của người phát ngôn và trước giả của Đức Chúa Trời. Các bản sao và bản dịch của nguyên bản Kinh thánh có thể có sai sót.
            2/ Sự thần cảm thiên thượng chỉ liên quan đến người phát ngôn của Đức Chúa Trời khi họ nói hoặc viết Lời của Ngài dưới tác động của Đức Thánh Linh. Sự thần cảm thiên thượng không liên quan đến các hành vi khác và các lời lẽ khác của họ trong cuộc sống (2Sa 7:3).
            3/ Dưới sự thần cảm thiên thượng, người nói và viết Lời Đức Chúa Trời được gìn giữ chẳng những khỏi các sự sai trật trong sự truyền đạt mà còn khỏi các sự thiếu sót nữa. Sự bày tỏ và các tác phẩm của họ là chính xác trong các giới hạn xác định một cách thiêng liêng. Họ cũng không nói hoặc viết quá những gì Đức Chúa Trời đã ấn định cho họ thực hiện.
            4/ Dầu Đức Chúa Trời không tỏ sự ưng thuận từng việc, từng lời của thiên sứ hay con người đã được ghi chép trong Kinh thánh, sự thần cảm thiên thượng vẫn bảo đảm cho các ký thuật hoặc hành vi và lời nói ấy (Sáng 3:4).
            5/ Dầu chúng ta không hiểu được thế nào và thế nào mà Đức Thánh Linh đã dùng những con người có thể sai lầm để thực hiện các ký thuật không thể sai lầm, điều đó cũng chưa đủ cho chúng ta kết luận rằng Ngài đã không làm như vậy. Có lẽ chúng ta chưa bao giờ hiểu được về Ngài một cách trọn vẹn trên bất cứ vấn đề nào.
            6/ Vì cớ sự đầy đủ của Kinh thánh cho niềm tin và phẩm hạnh của chứng ta và thể theo sự bày tỏ của Châm 30:5-6; 1Cô 13:8; và Khải 22:18-19, tôi tin rằng chẳng hề có sự khải thị đặc biệt nào khác được ban cho kể từ khi kết thúc kinh điển Tân Ước vào cuối thế kỷ thứ nhát.
            7/ Kinh thánh bày tỏ rằng mọi sự bày tỏ đặc biệt từ thiên thượng có nguồn gốc từ Đức Chúa Cha (Khải 1:1), được chuyển giao sang người đại diện là Đức Chúa Con (Gi 1:1), và được mặc lấy ngôn ngữ loài người bởi sự làm việc của Đức Thánh Linh trên con người (1 Cô 2:13; 2 Phi 1:21) là người phát ngôn của Đức Chúa Trời (Phục 18:18).
            8/ Đức Chúa Trời ít khi truyền phán qua người chưa được cứu (2 Sử 35:21-22; Gi11:49-51).
           
Thư mục:
1/ Barnabas, Dịch ra tiếng Việt Thần Học Cơ Đốc Thực Hành. Nguyên tác Kregel Publications và GS.TS. Floyd H.Barackman. Practical Christan Theology.  Năm 2011
2/ Kinh thánh
3/ Sách Giáo Khoa
Các Website:
[1] http://www.thuvien.eu/book/kt/Toan_Bo/TDKT_1222.html
2 https://sites.google.com/site/codocnhandn/kinh-thanh/than-hoc-can-ban/giao-ly-cua-kt-ve-su-soi-dan
3 http://wol.jw.org/vi/wol/d/r47/lp-vt/2008282
4 https://www.lds.org/general-conference/2012/04/how-to-obtain-revelation-and-inspiration-for-your-personal-life?lang=vie
5 http://httlgiadinh.org/Tin-Tuc/Gia-Dinh/227/Tim_Hieu_Kinh_Thanh_-_Bai_3_-_Su_Khai_Thi_Su_Soi_Dan_Su_Soi_Sang.aspx




[1] http://www.thuvien.eu/book/kt/Toan_Bo/TDKT_1222.html

[2] https://sites.google.com/site/codocnhandn/kinh-thanh/than-hoc-can-ban/giao-ly-cua-kt-ve-su-soi-dan
[3] http://wol.jw.org/vi/wol/d/r47/lp-vt/2008282
[4] https://www.lds.org/general-conference/2012/04/how-to-obtain-revelation-and-inspiration-for-your-personal-life?lang=vie
[5] http://httlgiadinh.org/Tin-Tuc/Gia-Dinh/227/Tim_Hieu_Kinh_Thanh_-_Bai_3_-_Su_Khai_Thi_Su_Soi_Dan_Su_Soi_Sang.aspx
[6] Barnabas, Dịch ra tiếng Việt Thần Học Cơ Đốc Thực Hành. Nguyên tác Kregel Publications và GS.TS. Floyd H.Barackman. Practical Christan Theology.  Năm 2011. Tr 15-16

Thứ Ba, 13 tháng 5, 2014

MƯA ĐẦU MÙA

Mưa đầu mùa, đưa hồn về cõi lạ
Hứng giọt trời lạnh tê tái hồn thơ
Cõi hư không… tít tắp xa mờ
Long lanh, ảo mộng, giấc mơ buồn xa lạ

Mưa đầu mùa, chớp mi buồn cúi mặt
Nhấm ngụm trà, ngước mắt nhìn mưa tuôn
Trong mộng mơ, ai hư ảo tơ buông
Chùng con tim, chớp mi buồn cúi mặt.

Mưa đầu mùa, đưa hồn về cõi mộng!
Cõi vĩnh hằng có ngàn bóng tha nhân
Cõi nhân gian, gian cho lắm cũng trần
Về cát bụi, về cùng hư ảo

Mưa đầu mùa, đưa hồn vào quên lãng
Chuyện tình buồn thôi khép lại cố nhân ơi!
Lẳng lặng trông, hình bóng xa vời
Cố nhân hỡi, thoát xa tầm tay với…


                                            NGỌC HUỆ - DIỆP LỤC TỐ

Thứ Năm, 20 tháng 3, 2014

GIÁO HOÀNG VÀ NỀN TẢNG TRONG KINH THÁNH

TĐ NGỌC HUỆ
          Kinh thánh không hậu thuẫn cho việc thiết lập chức vụ giáo hoàng. Những lý do không có nền tảng trong Kinh Thánh cho thấy rằng sự bớt ra và thêm vào Kinh Thánh đã có từ xưa, làm sai Lời Chúa đã trở thành truyền thống của một số giáo hội. Tuy nhiên, sự hãnh diện, tự đắc vì được “tông truyền” đã ru ngủ những người ở trong vinh quang đời này. Thế và quyền không những cám dỗ người trần gian mà còn quyến rũ cả những người “TU”. Chức vụ và quyền lực giáo hoàng theo thời gian mới hình thành, trong hội thánh ban sơ, hồi hội thánh Các Sứ Đồ không có. Chế độ giáo hoàng trải qua nhiều thời kỳ phát triển quyền lực (440 – 1050). Hội nghị Sardica năm 342 lần đầu tiên gán vị trí đứng đầu Hội thánh cho giám mục La mã.
Hoàng đế Valentinian III đã công nhận vị trí đứng đầu của La mã và giám mục của nó bằng sắc lệnh năm 445. Kinh thánh cho thấy Chúa Jésus không làm “chính trị”, tuy nhiên giáo hoàng lại làm, như việc Leo the Great (440-461) đã điều đình với Attila vua Hung nô để chúng rút lui không chiếm La mã. Việc này nâng cao quyền lực của ông. Ông là giám mục đầu tiên nói rằng giám mục La mã là người kế vị sứ đồ Phi e rơ, vì vậy có quyền cai trị Hội thánh!. Phải là “giám mục La mãmới là người “kế vị sứ đồ Phi e rơ”!.
Gregory I (590-604): đã đàm phán hòa bình với người Lombard ngăn  chặn sự xâm lăng của họ. Lúc quyền lực tại La mã bỏ trống, ông đã nắm quyền lãnh đạo chính trị tại Ý, bắt đầu cho những hoạt động thế gian của giáo hoàng.
Gregory VII (1073-1085): Làm cho quyền của giáo hội vượt trên quyền của vua. Innocent III (1198-1216): được bầu làm giáo hoàng năm 1198, đã nâng quyền thế gian của giáo hoàng lên cao nhất. Được xem là người sáng lập thực sự của nước Giáo hoàng. Ra lệnh chọn người kế vị tại Đế quốc La mã thánh. Thắng trong xung đột với vua John nước Anh. Triệu tập hội đồng Lateran IV năm 1215 thiết lập quyền tối cao của giáo hoàng.
Trong thời kỳ suy thoái của Giáo hoàng (1294-1517), thời kỳ phân chia (1378-1417), sau khi giáo hoàng Gregory XI, vị giáo hoàng cuối cùng ở Avignon, trở lại Rôma và chết, viện hồng y đã chọn một giáo hoàng người Ý là Urban VI. Các hồng y Pháp đã rời thành phố và bầu một giáo hoàng khác, Clement VII. Vậy là bắt đầu thời kỳ có hai giáo hoàng, một tại Rô ma, một tại Avignon. Như vậy theo ý của giáo hoàng Leo the Great (440-461) cho rằng “giám mục La mã mới là người “kế vị sứ đồ Phi e rơ”!, đã thay đổi không như ý muốn của con người.
Lời hứa của Chúa Jésus (Mat 16:19), sau lời tuyên xưng của Phi-e-rơ do Cha soi sáng, Chúa Jésus hứa giao chìa khóa Nước Thiên Đàng cho ông, theo ý nghĩa biểu tượng thì chính ông sẽ mở của Nước Trời cho nhiều người hay nói cách khác là Phi-e-rơ là người đầu tiên giảng Tin lành cho mọi người. Chính thực như thế, trong ngày lễ Ngũ Tuần với bài giảng đầu tiên  đã mở cửa Thiên Đàng cho 3.000 người Do thái (CV 2: 40-41), Phi-e-rơ là người đầu tiên giảng Tin Lành công khai cho người Do Thái.
QUAN ĐIỂM:
1.Chức vụ Giáo hoàng: Lấy nền tảng trên Ma-thi-ơ 16?, Giáo hoàng là người thầy, người lãnh đạo vô ngộ; Là chủ, là đầu hội thánh; không có sự đệ trình của giáo hoàng thì không có sự cứu rỗi. Đây là sự tập trung quyền lực vào con người
2.Tháp ba tầng: a- Thẩm quyền toàn diện của giáo hoàng (Total Authority); b- Thẩm quyền có thể kế truyền (Transferable Authority); c- Thẩm quyền La-mã (Roman Authority: phân biệt với Constantinople).
THẨM QUYỀN TOÀN DIỆN:
Niềm tin: Đấng Christ ban cho Phi-e-rơ một thẩm quyền toàn diện, đầy đủ để răn dạy tất cả hội thánh đương thời.
Lời dạy Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 16: 22 – 23 cho biết là hoàn toàn sai lầm, vì Phi-e-rơ có khi bị gọi là Satan thì không thể nào là giáo hoàng vô ngộ được. Ma-thi-ơ 18: 1 cho biết các môn đồ còn hỏi rằng ai là lớn, nghĩa là Phi-e-rơ cũng không được ban cho làn thẩm quyền toàn diện. Galati 2: 11 – 14, nếu Phi-e-rơ là lớn thì Sứ Đồ Phao-Lô không thể công khai sửa sai Phi-e-rơ trước mặt mọi người như thế.
THẨM QUYỀN CÓ THỂ KẾ TRUYỀN:
Niềm tin: Phi-e-rơ có thể truyền thẩm quyền giáo hoàng cho người khác và cứ như thế cho đến ngày nay Giáo hoàng là người kế vị Phi-e-rơ.
          Nền tảng Kinh Thánh: Với một giáo lý quan trọng như thế, không thấy Kinh Thánh đề cập đến như thế họ đã đi theo con đường của người Pha-ri-si đã làm có nghĩa là thêm lời truyền khẩu vào Kinh Thánh, một hành động sai lầm hoàn toàn.
          THẨM QUYỀN LA-MÃ:
Niềm tin: Phi-e-rơ là Giám mục đầu tiên của la-mã. Vì thế các giám mục tại La-Mã mới có thể kế truyền chức vụ giáo hoàng chứ không phải các giám mục nơi khác (Constantinople, Alexendrie…)
Nền tảng Kinh Thánh: Không có nền tảng nào trong Kinh Thánh, mà đây là sản phẩm tranh chấp quyền hành giữa các giám mục.

Chứng minh bằng nền tảng Kinh Thánh, cho thấy các quan điểm về giáo hoàng không có nền trong Kinh Thánh là đã làm sai Lời Chúa. 

Thứ Hai, 17 tháng 3, 2014

THỜI KỲ GIỮA HAI GIAO ƯỚC

Liệt kê những sự kiện nổi bật về chính trị, văn học và tôn giáo trong thời gian giữa hai giao ước (Intertestamental period)
TĐ NGỌC HUỆ
HT CƠ ĐỐC LIÊN HIỆP TOÀN CẦU
Về mặt lịch sử, có khoảng hơn 400 năm bị gián đoạn giữa thời Cựu Ước với Tân Ước, đó là từ thời Nêhêmi làm tổng trấn xứ Giuđê xây lại đền thờ tại Jé-ru-sa-lem tới ngày Đức Chúa Jésus giáng sinh hay giai đoạn giữa sách tiên tri Malachi và Mathiơ. Thời kỳ nầy cũng được gọi là thời gian im lặng, vì không để lại dấu ấn tiên tri nào. Những thông tin chúng ta có được thời kỳ này nhờ vào các tài liệu lịch sử. Trong giai đoạn này người Do thái chịu ảnh hưởng của các thế lực lớn trong vùng, những các sự kiện xảy ra lúc ấy đã đem lại cho dân Giuđa thời Chúa Jésus một hệ tư tưởng rõ nét, cả về chính trị, văn học và tôn giáo qua các giai đoạn sau:
          1/ Đế quốc Ba-tư:
Những sự kiện nổi bật về chính trị, văn học và tôn giáo
a/ Về chính trị: Năm 333 TC đế quốc Ba-tư xụp đỗ trước sự tấn công của Alexander Đại đế (A-lịch-sơn Đại đế), ông là người Hy Lạp.
b/ Văn học: Tiếng Hê-bơ-rơ là ngôn ngữ thờ phượng, tiếng A-ram là ngôn ngữ thông dụng trong vùng.
c/ Tôn giáo:
* Tên gọi Do Thái (Jew) trước kia chỉ dành để gọi dân xứ Gui-đa, nay được dùng để gọi toàn thể con cái Y-sơ-ra-el, những người hồi hương không còn thờ lạy hình tượng nữa.
* Luật Môi-se xuất hiện
* Giáo thuyết Pha-ri-si ra đời
* Hình thức thờ phượng đơn giản hơn trước khi bị lưu đày: Họ tụ họp lại để cầu nguyện, nghe đọc và giảng Luật pháp, không dâng của lễ.
* Tòa Công luận (Sanhedrin) hình thành với 70 Trưởng lão. Hội đồng này tư vấn cho thầy lế lễ. Việc này nói lên tầm quan trọng về mặt chính trị của chức thượng tế, có lợi ích cho kẻ thống trị nên người Ba-tư trao quyền cai trị cho thầy tế lễ thượng phẩm.
          2/ Đế quốc Hy-lạp:
a/ Về chính trị:
* Năm 336 TC, Alexander Đại đế lên ngôi cai trị Hy-lạp và đánh bại người Ba-tư trong trận Issus năm 333 TC.
* Năm 330 TC, toàn đế quốc Ba-tư rơi vào tay Alexander Đại đế, về sau ông bành trướng đế quốc của ông sang tận Ấn độ.
* Năm 323 TC, Alexander Đại đế băng hà (chưa đầy 30 tuổi). Sau đó, đế quốc của ông bị phân chia thành bốn vương quốc (khoảng 315 TC): (1) Ma-xê-đoan, (2) Ba-tư, (3) Sy-ri và Lưỡng hà, (4) Ai Cập và cực Nam Sy-ri (Xin xem Đa-ni-ên 8: 21 – 22).
* Từ năm 323 – 198 TC, miền Nam xứ Palestine dưới sự cai trị của dòng dõi các vua Ptolemies ở Ai Cập.
          b/ Văn học: Văn hóa Hy-lạp xâm nhập rộng rãi trong xứ Palestine, dưới ảnh hưởng này chức tế lễ bị thoái hóa thành chức vụ có tính cách hình thức lễ nghi. Giai đoạn này xuất hiện hai khuynh hướng khác nhau: (1) Một xu hướng muốn sống theo tư tưởng và nếp sống Hy-lạp; (2) Một xu hướng khác là vẫn theo truyền thống của tổ tiên, tin tưởng vào cách sống phân biệt, cách ly.
Alexander Đại đế (356 – 323 TC) là học trò của Aristotle, khi đem quân đánh chiếm tới đâu, ông đều đem các học giả để ghi chép địa lý, phong tục của các nơi ông chinh phục. Ông chủ trương cho duy trì văn hóa cổ truyền của các dân tộc, tuy nhiên ông cũng cho bành trướng văn hóa Hy-lạp, Hy-lạp hóa thế giới (Hellenism), nhờ đó, tiếng Hy-lạp trở thành thứ ngôn ngữ quốc tế. Khi triết lý và văn hóa của người Hy-lạp về cách sống, thương mại, giáo dục, kiến trúc … được truyền bá cho các nước, các rạp hát, vận động trường được xây dựng khắp nơi. Có một trung tâm văn hóa nổi tiếng, có thư viện chứa hơn 500.000 quyển sách, nơi Euclid tìm ra các định lý hình học phẳng, nơi Archimède tìm ra sức đẩy của nước [1]. Các thành phố lớn thu hút các di dân từ khắp nơi đến cư ngụ. Sau khi Alexander băng hà, dù đế quốc bị chia cắt nhưng các hoàng đế tiếp theo vẫn tiếp tục phong trào Hy Hóa.
c/ Tôn giáo:
* Dân Do thái tại Ai cập đông hơn dân Do thái tại Palestine bởi vì Alexander Đại đế đối đãi tốt với người Do thái, ông xây tại Ai Cập thành phố Alexander, nơi đây người Do thái được hoan nghênh. Về sau đây là những mối nối đầu tiên cho công cuộc truyền giáo của Cơ-đốc-giáo.
* Vua Ptolemy Philadelphus bảo trợ việc dịch Cựu Ước sang tiếng Hy-lạp, Bản Bảy mươi (Septuagint) do 70 dịch giả dịch. Đây là bản Kinh Thánh mà người Do thái tản lạc dùng, các trước giả Tân Ước cũng quen thuộc với bản này.
                   3/ Cuộc khởi nghĩa của anh em Mác-ca-bê:
a/ Về chính trị:
* Năm 198 TC, xứ Palestine được chuyển sang quyền kiểm soát của các vua Sy-ri thuộc triều đại Seleucid.
* Sách Đa-ni-el 8:23 có nhắc đến một vua có “bộ mặt hung dữ” cầm quyền đó là vua Antiochus IV, tên ông vua này đã trở thành biểu tượng của sự gian ác.
* Vua Antiochus IV cho dâng con heo lên bàn thờ trong đền thờ Do thái giáo khiến người Do thái bất mãn. Thầy tế lễ Ma-ta-thia (Mattathias) thuộc dòng họ Hasmonaean đã giết một sỹ quan Sy-ri, cuộc khởi nghĩa chống Sy-ri nổi dậy.
* Năm 166 TC Ma-ta-thia qua đời, người con trai thứ ba của ông là Gui-đa Mác-ca-bê hay Gui-đa Búa lên nắm quyền lãnh đạo đã đẩy lui quân Sy-ri.
b/ Tôn giáo:
* Sách Đa-ni-el 11:31 “Sự gớm ghiết làm ra sự hoang vu”, do vào năm 167 TC, khi đang trên đường đánh Ai Cập, về ngang Jé-ru-sa-lem, vua Antiochus IV hay tin hành động xấu xa của các thầy tế lễ, ông dẹp đền thờ Do thái giáo và ông cho vây đền thờ dựng thần Zeus trong đền thờ và cho dâng một con heo trên bàn thờ làm của lễ thiêu
* Lễ Khánh thành đền thờ: Với loạt chiến công khó tin, Gui-đa Mác-ca-bê chiến thắng quân Sy-ri, nên ngày 25, tháng Kít-lơ của người Do thái, năm 165 TC, đền thờ được tẩy uế và phục hồi các của lễ hằng dâng tại Jé-ru-sa-lem. Ngày này trở về sau trở thành Lễ Khánh thành đền thờ.
          4/ Các con trai của Ma-ta-thia:
Về chính trị:
* Năm 161 TC Gui-đa Mác-ca-bê tử trận, Giô-na-than là con út đứng lên lãnh đạo.
* Sy-ri có nhiều xáo trộn do Đê-mê-triu (Demetrious) và Alexander Balas, lạm xưng là con trai của vua Antiochus IV tàn ác tranh quyền nối ngôi vua. Cả hai đều muốn tranh thủ sự hậu thuẩn của các lãnh tụ dòng họ Mac-ca-bê. Alexander đến trước để bổ nhiệm Giô-na-than làm “Thầy Tế lễ Thượng Phẩm Toàn Quốc.”
* 142 TC, Giô-na-than bị tướng Trypho của Alexander Balas gài bẫy và giết chết.
* Si-môn là người con cuối cùng của Ma-ta-thia lên nối nghiệp, ông có tài lãnh đạo khiến dân Do thái ngày càng thịnh vượng.
* Năm 135 TC, thời kỳ hưng thịnh của Si-môn chấm dứt vì ông bị con rễ  là Ptolemy mưu sát.
Về văn học và tôn giáo trong thời kỳ này không có gì nổi bật.
5/ Các con cháu của Mác-ca-bê:
A/ John Hyrcanus (135 – 105 TC):
 a/ Về chính trị:
* Thế lực Do thái mạnh, bành trướng về phía Bắc, phía Nam và phía Đông.
* Dân Ê-đôm ở miền Nam xứ Gui-đê đã bị chinh phục, cải giáo và sáp nhập vào dân Do thái.
* John Hyrcanus lúc đầu thiên về phía người Pha-ri-si nhưng về sau ông lại theo phái Sa-đu-sê.
b/ Văn học: Văn hóa Hy-lạp ảnh hưởng rộng rãi trong giới quí tộc và thầy tế lễ. Nói như vậy cũng đồng nghĩa với việc họ chấp nhận việc để văn hóa Hy-lạp đi vào đời sống của họ như: Lấy tên Hy-lạp, chấp nhận trường phái triết học Hy-lạp, các thần của Hy-lạp …
c/ Tôn giáo:
* Si-môn chết, con trai ông là John Hyrcanus lên kế vị làm thầy tế lễ thượng phẩm.
* Trong cuộc Bắc tiến, thành phố Si-chem và đền thờ của người Sa-ma-ri trên núi Ga-xi-rim bị phá hủy, điều này làm trầm trọng thêm mối thù của người Do thái và Pha-ri-si.
* Hình thành phái Sa-đu-sê: Lúc này giai cấp quí tộc và gia tộc thầy tế lễ theo khuynh hướng Hy-lạp hóa, trở thành phái Sa-đu-sê.
* Hình thành phái Pha-ri-si: Phái Chasidim trở thành phái Pha-ri-si muốn tuân thủ luật pháp.
          B/ Alexander Jannaeus (104 – 78 TC):
Về chính trị:
* Giai đoạn này đánh dấu sự suy tàn của dòng quý phái là gia đình Mat-ta-thia, đất nước do Alexander Jannaeus cai trị, đầy nội loạn, trong đó có cuộc nội chiến giữa phái Pha-ri-si và Sa-đu-sê; ông là con của John Hyrcanus (băng hà năm 105 TC).
* Hình thức xử tử đóng đinh vào thập tự giá ra đời khi kết thúc cuộc nội chiến.
* Cuộc bạo loạn tại Jé-ru-sa-lem, Alexander đã ra lịnh đóng đinh tám trăm lãnh tụ của phái Pha-ri-si.
          C/ Nội chiến và loạn lạc (78 – 65 TC):
Về chính trị: Năm 78 TC, Alexander Jannaeus băng hà, vợ góa của ông là Alexandra cai trị khá khôn ngoan. Alexandra lập Hyrcanus là trưởng nam làm thầy tế lễ thượng phẩm. Khi bà qua đời, Aristobulus là con trai thứ vốn hiếu chiến và táo bạo đã cướp chính quyền tại xứ mình để tiếm ngôi.
Đế quốc La-mã xuất hiện.
Về tôn giáo: Bà Alexandra lập Hyrcanus là trưởng nam làm thầy tế lễ thượng phẩm. Tuy nhiên, ông này là người nhu nhược lại nhiều tham vọng
          6/ Đế quốc La-mã xuất hiện:
Hoàng đế Au-gút-tơ (63 TC – 14 SC) đã xây dựng một nền quân chủ bằng cách đặt ra thể chế công dân La-mã (công dân hạng nhất – fist citizen). Để tiện việc thông tin, di chuyển hàng hóa, quân đội, đế quốc xây dựng hệ thống đường bộ, hải cảng, các thuyền vận tải lớn (Phao Lô đã đi theo thuyền này tại cảng My-ra xứ Ly-si – CV 27:6). Về phương diện hành chánh, đế quốc cho các thành, các địa phương tự trị, nơi cần yếu mới có tổng đốc La-mã. Điều đặc biệt là người La-mã thì cai trị đế quốc nhưng văn hóa và ngôn ngữ phổ thông là tiếng Hy-lạp. Nhờ giao thông thuận tiện, chung một ngôn ngữ nên đây là điểm thuận lợi cho công cuộc truyền giáo sau này.
Năm 65 TC, đại tướng La-mã là Pompey đi chinh phục Đông phương; phó tướng Scaurus kéo quân đến Đa-mách. Hai anh em Hyrcanus và Aristobulus đều sai sứ cầu viện La-mã.
          A/ Pompey:
Chính trị:
* Scaurus ủng hộ Aristobulus; năm 63 TC Pompey đến Jé-ru-sa-lem, ông ủng hộ Hyrcaunus. Ông vây Jé-ru-sa-lem ba tháng và giết 12.000 người Do thái, Jé-ru-sa-lem thất thủ.
* Pompey cho Hyrcanus làm vua chư hầu chỉ cai trị xứ Gui-đê. Nền độc lập của Do thái bị mất
Tôn giáo:
Nơi Chí thánh trống rỗng khi Pompey tò mò vào để xem. Pompey cho Hyrcanus làm thầy tế lễ thượng phẩm và gọi là “etnarth” vua chư hầu chỉ cai trị xứ Gui-đê mà thôi. Pompey xem chức thầy tế lễ thượng phẩm như một địa vị chính trị mà ông có quyền bổ nhiệm nhưng đối với người Do Thái tin kính chức thầy tế lễ vốn là thiêng liêng việc làm nầy là một tội lỗi chống lại Đức Chúa Trời.
          B/ Antipater làm tổng đốc:
* Năm 47 TC, Antipater được ban cho quyền công dân La-mã, được bổ nhiệm làm tổng đốc xứ Gui-đê. Julius Caesar tỏ ra ưu ái dân Do thái nên đã miễn thuế cho họ, cho được tự do tôn giáo, cho xây lại vách thành Jé-ru-sa-lem mà Pompey đã phá hủy, Caesar băng hà năm 44 TC.
* Năm 45 TC, Antipater bị đầu độc, tuy nhiên ông cũng đã kịp thời bổ nhiệm cho con mình là: Phasael làm tổng đốc Jé-ru-sa-lem và Hê-rốt làm tổng đốc xứ Ga-li-lê, đây chính là vị vua Hê-rốt Đại đế cai trị khi Chúa Jésus giáng sinh.
          C/ Hê-rốt Đại đế:
Chính trị: Ông là người có tài tổ chức. Trong đời ông cai trị Sê-sa Au-gút-tơ ra chiếu chỉ lập sổ dân trong khắp thiên hạ. Ma-ri và Giô–sép  phải trở về Bết-lê-hem để khai tên mình vào sổ. Khi các bác sĩ đến tìm Vua dân Gui-đa, Hê-rốt hoảng hốt ra lệnh giết chết hết trẻ em từ hai tuổi trở xuống tại Bết-lê-hem. Tuy nhiên, việc làm tàn ác này với mục đích giết chết Chúa Jésus đã thất bại.
Tôn giáo: Hê-rốt cho xây lại đền thờ, đền thờ này nguy nga hơn đền thờ do Sa-lô-môn xây.
7/ NGƯỜI DO THÁI:
Do thái giáo (Judaism) không còn là tinh thần quốc gia mà là niềm tin tôn giáo, bối cảnh lịch sử, xã hội đã góp phần thay đổi cung cách thờ phượng. Trong Do thái giáo có nhiều khuynh hướng khác nhau, đa số không muốn bị đồng hóa trong văn hóa mới, họ muốn theo luật pháp Môi-se.
Văn chương “mạt thế” (apocalypticism) dần dần thịnh hành, với các đặc tính sau: - Thế giới hiện tại không thể cứu vãn được. – Đời này sẽ bị xụp đỗ và thay thế bởi một thế giới mới. – Chúa sẽ phục sanh và ban thưởng cho người trung tín. – Các cấp bực thiên sứ chiến tranh chống lại kẻ thù của Chúa.
NHỮNG THÀNH PHẦN TÔN GIÁO CỦA NGƯỜI DO THÁI[2]:
1/ Phái Sa-đu-sê: Nhóm người này vừa bảo thủ, vừa truyền thống, thuộc tầng lớp tế lễ và người giàu trong xã hội. Họ cộng tác với người La-mã, người ta ít biết đến tín ngưỡng của phái này. Tuy nhiên, quan điểm truyền thống cho rằng họ chỉ nhìn nhận Luật pháp Môi-se, Kinh Thánh có thẩm quyền tức là Ngũ Kinh hay Toral. Do Toral không nói rỏ ràng niềm tin về sự phục sinh nên người Sa-đu-sê bát bỏ niềm tin này. Đồng thời không chấp nhận niềm tin liên hệ đến Đấng Mết-si-a của người Do thái trong thế kỷ thứ nhất. “Người Sa-đu-sê quyết rằng không có sự sống lại, cũng không có thiên sứ, thần chi hết, còn người Pha-ri-si lại nhận cả hai điều tin ấy” (CV 23:8).
          2/ Phái Pha-ri-si: Người Pha-ri-si không giống như phái Sa-đu-sê, họ không thuộc tầng lớp thầy tế lễ giàu có lúc nào cũng muốn duy trì hiện tại để hưởng vinh hoa của đời này. Họ không liên quan đến việc chính trị, họ chiếm số đông hơn phái Sa-đu-sê trong đó đa số là các học giả và giáo sư Cựu Ước. Họ không phải là những người bảo thủ về Kinh Thánh cũng như giáo lý, ngược lại họ cởi mở đối với sự phát triển của luật pháp và giáo lý, do tư tưởng của người Pha-ri-si có phần linh hoạt trong cách hiểu ý nghĩa của luật pháp và đền thờ, đôi lúc họ được xem như là phong trào khoáng đạt/ tự do. Họ tranh luận rằng sự thanh sạch tại đền thờ không chỉ dành riêng cho các thầy tế lễ, mà sự thanh sạch tôn giáo dành cho tất cả mọi người Do thái trong đời sống hàng ngày. Phái này nổi tiếng chính thống, tin Cựu Ước, dạy về sự sống lại và phán xét cuối cùng, công nhận sự hiện hữu của thiên sứ và các thần linh. Mặc dù trong Tân Ước cả người Pharisi lẫn người Sađusê đều tố cáo lẫn nhau, nhưng họ có một điểm chung là cùng chống lại Chúa Giêxu. Phái Pha-ri-si bị Chúa Jésus lên án không phải vì mất chính thống mà vì nhấn mạnh điều không quan trọng mà quên đi điều thiết yếu trong Luật pháp (Mat 23:23).
          3/ Phái Essenes: Phái Essenes không được nêu tên trong Kinh Thánh Tân Ước, họ sống cùng thời với Chúa Jésus tại Palestine. Vị Thầy Công Bình sáng lập ra phái nầy, họ có chủ trương tách biệt khỏi người ngoại bang. Cộng đồng này chờ sự can thiệp mạnh mẽ của Đức Chúa Trời trong lịch sử để chấm dứt cuộc khổ hạnh. Qumran là một trong những cộng đồng như vậy. Phái Essenes có nhiều điểm tương đồng với Cơ-đốc-giáo, tuy nhiên cũng có điểm khác biệt như: Phái Essenes cho rằng chỉ có số ít người được chọn mới vào được Nước Đức Chúa Trời, Kinh Thánh ứng nghiệm trong cộng đồng của họ trong khi Cơ-đốc-giáo tin rằng Kinh Thánh ứng nghiệm trong đời sống, sự chết và phục sinh của Chúa Jésus...
          4/ Phái Xê-lốt (Zealots): Ít được biết đến, họ là những người có tinh thần quá khích, có phần cực đoan, với chủ trương là “ám sát” bất cứ ai tin vào thứ luật mà họ chống.
          5/ Phái triết Thuyết thứ tư (Fouth Philosophy): Có niềm tin giống người Pha-ri-si. Họ coi Chúa là lãnh đạo, là chủ đuy nhất. Thế nên họ sẳn sàng chết chứ không gọi ai là chúa, là chủ.
          6/ Người bình dân không theo nhóm nào: Đây là những con chiên lạc mất của nhà Y-sơ-ra-el (Mat 10:6), chiên không có người chăn (Mác 6:34) mà Chúa tìm. Đây là những người theo Đức Chúa Jésus.
          7/ Người Sa-ma-ri: Kinh Thánh của họ chỉ có Ngũ Kinh, thờ phượng Chúa mà còn thờ các thần khác nữa (II Các Vua 17:29,33). Họ không được dự phần xây dựng đền thờ trong thời E-xơ-ra (E-xơ-ra 4:3), thay vào đó họ xây đền thờ riêng tại núi Ghe-ri-xim. Người Sa-ma-ri họ là những người không thuần Do thái, lý do là vùng Sa-ma-ri là vương quốc của Y-sơ-ra-el xưa, bị người A-sy-ri phá hủy năm 772 TC, khi đó các vua A-sy-ri đem các dân ở nước khác tới ở, tạo thành sự pha tạp giống nòi. Do tinh thần tự tôn dân tộc cao người Do thái rất xem thường người Sa-ma-ri vì là giống người lai tạp, nên sự thù hận giữa hai dân tộc rất lớn.
          Giữa lúc các hoàng đế La-mã cai trị hầu hết những miền có dân cư trên đất, thì tại một thị trấn nhỏ xứ Palestine, một người ra đời làm thay đổi cục diện thế giới, đó là Chúa Jésus ở Na-xa-rét. Đây không là sự kiện bất ngờ mà là kết quả của sự chuẩn bị của Thượng đế (Gal 4:4) như:
* Cuộc chuẩn bị cho Người Do thái: Đức Chúa Trời chọn Do thái làm nước Thầy tế lễ, một dân thánh (Xuất 19:6) làm sứ giả của Ngài cho các dân tộc. Về tôn giáo thờ Độc thần là Đức Chúa Trời và Luật pháp của Ngài.
* Cuộc chuẩn bị người Hy-lạp: Một ngôn ngữ cho toàn thế giới, dù đây là tham vọng của Alexander đại đế (334 – 323 TC) chinh phục cả Cựu thế giói như cơn lốc, ông đã lập tiếng Hy-lạp làm ngôn ngữ chung. Ảnh hưởng của ngôn ngữ Hy-lạp rất lớn, đã cung cấp phương tiện truyền bá sứ điệp Cơ-đốc, các Sứ đồ giảng dạy bằng tiếng Hy-lạp và Tân Ước viết bằng tiếng Hy-lạp.
* Cuộc chuẩn bị người La-mã: Người La-mã nổi tiếng về việc duy trì luật pháp và trật tự với các tổng trấn, tạo được thời kỳ hòa bình dưới triều Sêsa Augúttơ (Augustus) . Hệ thống đường giao thông đi lại dễ dàng. Ngoài ra cũng có tiêu cực: suy đồi luân lý, tôn giáo hình thức, thiếu sức sống, có phái huyền bí giao thông với các thần linh…, tạo niềm khát khao về sự cứu chuộc.
          Khi Ngôi Lời trở nên xác thịt, Ngôi Lời đã nhập thể trong một bối cảnh phức tạp của thực tại xã hội, văn hóa, chính trị, kinh tế và tôn giáo. Trong khung cảnh đó, trong thời điểm đó, dân Do Thái nói riêng và nhân loại nói chung đang khao khát một Đấng Cứu Tinh và Đức Chúa Trời thành người. Bất cứ một người Do Thái nào cũng mong chờ sự ra đời của Đấng Mết-si-a. Sách Mathiơ là nhịp cầu giũa Tân Ước và Cựu Ước, nối kết các lời tiên tri với sự ứng nghiệm trong Chúa Jésus: Cựu Ước tiên tri về Đấng Mết-si-a và đây Ngài đã đến rồi.
Bài viết có tham khảo SGK, Viện UUC, Tìm hiểu Tân Ước, bài 1 & 2.
TĐ NGỌC HUỆ
HT CƠ ĐỐC LIÊN HIỆP TOÀN CẦU




[1] Howard Clark Kee, Understanding the New Testament, tr.18 – Theo SGK Tìm hiểu Tân Ước, tr 23.
[2] Sgk, Tìm hiểu Tân Ước, tr 27.