KINH THÁNH: Đức Chúa Giê-su Christ Đấng cứu
chuộc nhân loại, qua sự chết của Ngài trên thập tự giá đây là công việc mà
chính Ngài đã công bố: “Mọi việc đã được trọn; rồi Ngài gục đầu mà trút linh hồn”
Giăng 19:30. Mặt khác Kinh Thánh Lu-ca 4:43 chép rằng “Ta cũng phải rao Tin
Lành của nước Đức Chúa Trời nơi các thành khác; Vì cốt tại việc đó mà Ta đã được
sai đến” (Lu-ca 4:43).
GS. PHẠM NGỌC HUỆ
DẪN NHẬP
“Ta
cũng phải rao Tin Lành của nước Đức Chúa Trời nơi các thành khác; vì cốt
tại việc đó mà Ta đã được sai đến” (Lu-ca 4:43). Chữ “phải” như là một mệnh lệnh
từ Đức Chúa Cha, khiến Đức Chúa Giê-su không
ngần ngại đi từ nơi này đến nơi khác. Nhằm mục đích “rao Tin Lành của nước Đức
Chúa Trời”. Đây là công việc của Đấng Christ khi đến thế gian.
Đức Chúa Giê-su có mặt trên đất
33 năm. Trước khi Ngài bước lên thập tự giá làm trọn chương trình cứu rỗi của Đức
Chúa Trời ấy là rao truyền Tin Lành cho loài người tội lỗi. Trong đó, 30 năm
đầu Ngài làm trọn bổn phận của người con. Ba năm còn lại Chúa Giê-su
chuyên tâm trong việc rao giảng Tin Lành, đuổi quỉ để cho người bị nó ám ra
khỏi xiềng xích của Sa-tan, chữa bệnh cho kẻ đau, hóa bánh cho đoàn dân đông.
Ngài đến với người nghèo để an ủi, đến với những con người tội lỗi để họ được
tha thứ. Có lúc Ngài không ngủ để cầu nguyện. Tất cả là để đáp ứng nhu cầu tâm
linh và thể xác của mọi người đang cần được cứu giúp.
Trong ba năm, một thời gian ngắn
ngủi mà đối với Ngài thì Tin Lành này cần được rao giảng khắp cùng trái đất.
Chính vì vậy, công việc của Chúa Giê-su cần kêu gọi và đào tạo môn đồ.
Khi bước vào chức vụ, Ngài thấy những người đánh cá là Si-môn, Anh-rê ... Ngài
cất tiếng gọi: “Hãy theo ta, và ta sẽ khiến các ngươi trở nên tay đánh lưới người”
(Mác 1:17). Ngài đã huấn luyện hiệu quả những môn đồ đi theo Ngài. Bởi chính họ
sẽ là những người tiếp tục rao giảng Tin Lành “khi Ngài hết công vụ trên đất”.
Dù rất bận rộn nhưng Ngài vẫn dành nhiều thời gian ở riêng với các môn đồ để dạy
dỗ, huấn luyện họ. Ngài ban quyền năng Thánh Linh để sau này họ trở thành những
người mở mang Nước Chúa. Chúa Giê-su từng nói: “Quả thật, quả thật, ta nói cùng
các ngươi, kẻ nào tin ta, cũng sẽ làm việc ta làm; lại cũng làm việc lớn hơn nữa,
vì ta đi về cùng Cha” (Giăng 14:12).
Khi Chúa Giê-su đi về cùng Cha,
Ngài đi bằng con đường thập tự giá, như Phúc Âm Giăng ghi lại chính Chúa Giê-su
đã công bố: “Mọi việc đã được trọn; rồi Ngài gục đầu mà trút linh hồn” (Giăng
19:30). Căn cứ vào những phần tôi phân tích trên, bài viết này sẽ triển khai
các vấn đề sau đây: Mục đích của Đức Chúa Giê-su được sai đến thế gian là phải
giảng Tin Lành cho các nơi khác nhau. Cho đến khi Chúa lên thập tự giá và Ngài
công bố: “Mọi việc đã được trọn; rồi Ngài gục đầu mà trút linh hồn.” Qua các sự
việc cụ thể như sau:
. Sự nhập thể và mục đích của
Chúa Giê-su đến thế gian.
. Công việc của Chúa Giê-su khi
Ngài tại thế.
. Phạm vi của sự cứu rỗi.
.
Chúa Giê-su lên thập tự giá
I. Sự nhập
thể và mục đích của Chúa Giê-su đến thế gian
Chúa Giê-su giáng thế để bày tỏ Đức
Chúa Trời vô hình, Kinh Thánh chép: “Chưa ai trông thấy Đức Chúa Trời bao giờ,
chỉ Con Một Đức Chúa Trời ở tận trong lòng Cha mới giải bày được Đức Chúa Trời
cho chúng ta” (Giăng 1:18). Chúa Giê-su giáng thế nhằm bày tỏ sự cứu rỗi của Đức
Chúa Trời: “Đức Chúa Trời cho Con Ngài xuống thế gian nào phải để kết án thế
gian, nhưng để thế gian nhờ Đức Con mà được cứu.” (Giăng 3:17). Chúa Giê-su nhập
thể qua lòng trinh nữ Ma-ri nhằm để:
“Nhắc chúng ta nhớ rằng,
sự cứu rỗi của chúng ta mang tính chất siêu nhiên... Giăng tuyên bố rằng những
ai tin và nhận quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời thì được sinh lại: “Chẳng
phải bởi khí huyết, hoặc bởi tình dục, hoặc bởi ý người, nhưng sanh bởi Đức
Chúa Trời vậy” (Giăng 1:13). Điểm nhấn mạnh ở đây sự cứu rỗi không đến từ sự nổ
lực của con người... Loài người không những không thế giành lấy sự cứu rỗi cho
mình, mà cũng chẳng thể tự đưa Đấng Cứu Rỗi vào trong xã hội loài người.”
Chúa Giê-su khi nhập thể mang
nhân tính và thể chất trọn vẹn của một người từng trải nghiệm sự phát triển cơ
thể: “Con trẻ lớn lên, mạnh khoẻ, đầy dẫy sự khôn ngoan. Ân phúc của Đức Chúa
Trời ở trên Ngài: Đức Giê-su khôn ngoan càng thêm, thân hình càng lớn, càng được
đẹp lòng Đức Chúa Trời và loài người” (Lu-ca 2:40,52). Ngài cũng khát và mệt mỏi:
“Tại đó có cái giếng của Gia-cốp. Vì đi đường mệt mỏi nên Đức Giê-su ngồi nghỉ
bên giếng. Lúc đó, khoảng giữa trưa” (Giăng 4:6)....
Phúc Âm Mác giới thiệu Chúa
Giê-su là Con Đức Chúa Trời (Son of God) - Đấng vẫn còn mang thần tính. Trong
Phúc Âm Mác 1:1. Bởi vì Ngài là Con Đức Chúa Trời, là Ngôi Hai Thiên Chúa, nên
Ngài có thẩm quyền trong công tác giảng dạy, đuổi quỉ, tha thứ tội lỗi, cũng
như Ngài đến thế gian để cứu chuộc loài người ra khỏi tội lỗi. Chúa Giê-su là Đấng
Vô Tội, “Đức Chúa Trời đã làm cho Đấng vốn chẳng biết tội lỗi trở nên tội lỗi
vì chúng ta, hầu cho chúng ta nhờ Đấng đó mà được trở nên sự công bình của Đức
Chúa Trời” (2 Cô-rinh-tô 5:21).
Phúc Âm Giăng mô tả Chúa Giê-su
là Ngôi Lời, Ngôi Hai Thiên Chúa, giáng thế làm người để cứu chuộc nhân loại và
luôn ở giữa chúng ta: “Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và
lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con
một đến từ nơi Cha..” (Giăng 1:14). Chúa Giê-su là Đấng quyền uy, toàn năng “Đức
Giê-su đến gần và bảo các môn đệ: “Tất cả quyền uy trên trời, dưới đất đều giao
cho Ta” (Ma-thi-ơ 28:18).
Sự giáng sinh của Chúa Cứu Thế
mang một ý nghĩa thần học sâu nhiệm, Ngài đã từ bỏ ngôi cao sang, Ngài hạ mình
đến nỗi, được diễn tả như sau: “6Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời,
song chẳng coi sự bình đẳng mình với Đức Chúa Trời là sự nên nắm giữ; 7chính
Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người; 8Ngài
đã hiện ra như một người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết
trên cây thập tự” (Phi-líp 2:6-8).
II. Công
việc của Chúa Giê-su khi Ngài tại thế
Công việc của Đấng Christ gồm:
1/ CÁC CHỨC NĂNG CỦA ĐẤNG
CHRIST: Vai trò khải thị; Sự cai trị và công tác giải hòa của Đấng Christ.
2/
CÁC GIAI ĐOẠN TRONG CÔNG TÁC CỦA ĐẤNG CHRIST
a/
Giai đoạn hạ mình: Nhập thể; Chịu chết; Xuống âm phủ.
b/
Giai đoạn tôn cao: Phục sinh; Thăng thiên và cầu thay bên hữu Chúa Cha; Tái
lâm.
3/
ĐÀO TẠO MÔN ĐỒ
1/ CÁC
CHỨC NĂNG CỦA ĐẤNG CHRIST: Vai trò khải thị; Sự cai trị và công tác giải hòa của
Đấng Christ.
Trong bài thảo luận này, công việc
của Đấng Christ được tôi trình bày sau đây: Công tác Đấng Christ gồm có ba chức
năng: “Bày tỏ; Cai trị và Giải hòa”. Gần gủi
Chúa để hiểu ba chức năng: Bày tỏ, Cai trị và Giải hòa của Đấng Christ cho
chính mình là thế nào. Chính mình hiểu thì mới kinh nghiệm được và chia sẻ cho
người khác. Đây là về phương diện lịch sử được một số giáo phụ đề cập, nhưng
chính Jonh Cavil là người quan tâm khai thác đặc biệt khái niệm này. Tuy nhiên,
theo G. C. Berkouwer cho thấy: “Người ta phản đối khái niệm nhiều chức vụ vì
cho rằng phân biệt dù bất cứ hình thức nào cũng đều là lý của con người và sặc
mùi Kinh viện.” Tôi cũng học hỏi được từ SGK trang 118 “không nên nhấn mạnh một
mặt nào làm giảm bớt giá trị của các mặt kia, cũng không nên tách riêng từng
khía cạnh một cách quá rạch ròi thành ra những hành động riêng biệt của Đấng
Christ.”
Theo tôi, Hội Thánh Tin Lành Việt
nam chú trọng nhiều đến công tác truyền giáo, vì Đấng Christ xuống thế gian để
tìm những con chiên lạc mất của nhà Y-sơ-ra-ên, Ngài tìm kiếm kẻ hư mất, đỗ huyết
trên thập tự giá, Ngài là giá chuộc cho nhiều người... Giăng 3:16 được nhấn mạnh,
Hội Thánh nhấn mạnh đến ĐẠI MẠNG LỊNH trong Ma-thi-ơ 28:19-20, Công Vụ 1:8...
Kinh Thánh dạy Cơ Đốc nhân phải
chu toàn các bổn phận ngay trong thế gian, tương ứng với chức phận trong cuộc sống
dành cho mỗi người trong xã hội (1Cô-rinh-tô 7:17-24; Ê-phê-sô 6:1-9). “Anh em
đã được chuộc bằng giá cao, chớ trở nên tôi mọi của người ta làm chi. Hỡi anh
em, ai nấy khi được gọi ở đấng bậc nào, thì phải cứ ở theo đấng bậc ấy trước mặt
Đức Chúa Trời” (1Cô 7:23-24). Như vậy, có nhiều cách để hầu việc Đức Chúa Trời
chứ không phải chỉ nhấn mạnh đến việc truyền giáo. Chỉ nhấn mạnh riêng chức vụ
nào thì điều này làm mất quân bình trong việc phát triển Hội Thánh trên đất
này.
2/ CÁC
GIAI ĐOẠN TRONG CÔNG TÁC CỦA ĐẤNG CHRIST
a/ Giai
đoạn hạ mình: Nhập thể; Chịu chết; Xuống âm phủ
Sự nhập
thể
được tôi trình bày ở phần I, trong bài này.
Chịu chết: Bước thấp cùng cực
trong sự hạ mình của Chúa Giê-su là chịu chết một cách nhục nhã. Mục đích của sự
chết của Chúa Giê-su nhằm qua đó con người tội lỗi được Cứu Chúa chuộc tội. Ý
nghĩa của sự chết chuộc tội: “Leon Morris viết: Sự chuộc tội là một giáo lý
quan trọng của đức tin... do tầm quan trọng của giáo lý nên chúng ta phải
nghiên cứu nó thật cẩn thận” (trích SGK, tr. 136). Thuyết chuộc tội là quan trọng theo Erickson
vì nó “liên quan đến sự cứu rỗi” và là nền tảng cho các giáo lý khác. Có năm học thuyết chuộc tội được nêu ra ở sách
Giáo Khoa là:
a/ Thuyết Socinus: Chuộc
tội để làm gương.
b/ Thuyết Ảnh hưởng đạo
đức: Chuộc tội là chứng minh tình yêu của Đức Chúa Trời.
c/ Thuyết Thần trị
(Govermental Theory): Chuộc tội là chứng minh cho sự công bình của Đức Chúa Trời.
d/ Thuyết Giá chuộc:
Chuộc tội là đác thắng các thế lực của tội lỗi và gian ác.
e/ Thuyết Đền bồi: Chuộc
tội là sự bồi thường cho Đức Chúa Cha.
Sự cứu chuộc của Đức Chúa Giê-su
mang nhiều ý nghĩa về sự hy sinh và thay thế (Ê-sai 53) và giao ước mới: “Ngài
phán rằng: Nầy là huyết ta, huyết của sự giao ước đổ ra cho nhiều người” (Mác
14:24). Chúng ta, cả thảy là những tội nhân không thể làm gì để được cứu rỗi,
cũng chẳng ai có thể tự cứu rỗi chính mình. Song, bởi ân điển của Ðức Chúa Trời,
Chúa Giê-su đã giáng thế, tình nguyện chịu chết trên thập tự giá làm của lễ chuộc
tội cho chúng ta. Nhờ tin nhận công lao cứu chuộc đó, chúng ta được kể là công
bình, và đứng trong địa vị công bình của Chúa Giê-su. Ấy chẳng phải bởi việc
làm của chúng ta nên chẳng ai có một cớ nhỏ để khoe mình, mà chỉ có cớ để cảm tạ
Chúa mà thôi.
Xuống âm
phủ: Bài
Tín Điều Các Sứ Đồ có ghi việc Chúa Giê-su xuống âm phủ. Đây là một lẽ đạo ít
được các nhà thần học đề cập đến.
b/ Giai
đoạn tôn cao: Phục sinh; Thăng thiên và cầu thay bên hữu Chúa Cha; Tái lâm.
Việc Chúa
Giê-su phục sinh là Ngài đã đánh bại sự chết, là bước đầu tiên trở lại sự
tôn cao, việc này rất quan trọng, sự kiện phục sinh là khởi đầu cho những ngày
sau rốt. Đó là chiến thắng khải hoàn của Chúa Giê-su trên tội lỗi, được giải
thoát khỏi sự rủa sả giáng trên Ngài vì Ngài đã tình nguyện gánh tội thay cho
toàn nhân loại. “Bằng cớ sự phục sinh của Chúa Giê-su”:
“1.
Ngôi mộ trống (Ma-thi-ơ 28:6; Lu-ca 24:3 ).
2. Lời
chứng của các Thiên sứ (Ma-thi-ơ 28:46; Lu-ca 24:5-7 )
3. Những
người nói chuyện với Ngài sau khi sống lại: Phi-e-rơ, Ma-ri, Thô-ma.
4.
Giê-su đã ăn, uống, chỉ ra các dấu đinh ở tay, ở sườn, sau khi Ngài sống lại.
5.
500 tín đồ thấy Ngài cùng một lúc (1Cô-rinh-tô 15:6).
6.
Chúa Giê-su hiện ra với Ê-tiên khi vị chấp sự tử đạo (Công vụ 7:56”.
7.
Chúa hiện ra với Phao-lô trên đường Đa-mách (Công. 9:5”.
8. Bởi
lời chứng của hàng triệu người đã chứng minh Ngài là cứu Chúa hằng sống.
9. Bởi
những bằng chứng không thể chối bỏ (Công vụ 1:3).”
Phục
Sinh của Chúa Giê-su là do quyền năng và
sức mạnh của Thiên Chúa, điều này gây dựng đức tin cho người tin Chúa: “Anh em
đã bởi phép báp-tem được chôn với Ngài, thì cũng được sống lại với Ngài bởi đức
tin trong quyền phép Đức Chúa Trời, là Đấng đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại” (Cô-lô-se
2:12). Nhờ bởi vinh quang của Ngài, “Vậy chúng ta đã bị chôn với Ngài bởi phép
báp tem trong sự chết Ngài, hầu cho Đấng Christ nhờ vinh hiển của Cha được từ kẻ
chết sống lại thể nào, thì chúng ta cũng sống trong đời mới thể ấy” (Rô-ma 6:4).
Rao giảng Đức Chúa Giê-su Phục Sinh là rao giảng về Đức Chúa Cha đã cho Đức Giê-su
sống lại từ cõi chết và như thế là làm vinh hiển danh Ngài.
Sau
đó là biến cố thăng thiên của Chúa Giê-su, Công vụ 1:9 ghi: “Ngài phán bấy
nhiêu lời rồi, thì được cất lên trong lúc các người đó nhìn xem Ngài, có một
đám mây tiếp Ngài khuất đi, không thấy nữa”. Chúa Giê-su thăng thiên, và Ngài đã ngồi bên hữu Đức Chúa Cha và cầu thay cho
loài người. Sau khi Chúa Giê-su thăng thiên 10 ngày, Đức ChúaThánh Linh giáng
lâm ở với Hội Thánh cho đến bây giờ. Như vậy, sự thăng thiên của Chúa Giê-su
đem đến kết quả lớn lao, “Dầu vậy, ta nói thật cùng các ngươi: Ta đi là ích lợi
cho các ngươi; vì nếu ta không đi, Đấng Yên Ủii sẽ không đến cùng các ngươi
đâu; song nếu ta đi, thì ta sẽ sai Ngài đến” (Giăng 16:7).
Còn
khía cạnh tôn cao khác nữa của Chúa Giê-su là sự tái lâm. Khi đó mọi đầu
gối sẽ quì xuống và mọi lưỡi sẽ xưng Giê-su Christ là Chúa (Phi-lip 2:10-11).
Những lời tiên tri về sự giáng sinh của Chúa Giê-su đã được ứng nghiệm hoàn
toàn, điều nầy giúp Cơ Đốc nhân hoàn toàn tin tưởng rằng những lời tiên tri về
sự tái lâm của Ngài cũng sẽ được ứng nghiệm trong tương lai, như: Tiên tri thời
Cựu Ước (Đa-ni-ên 7:13). Chính Chúa Giê-su nói tiên tri (Ma-thi-ơ 25:31). Sứ đồ
Phao-lô cho biết (1Ti-mô-thê 6:14).... Chúa tái lâm lúc nào? Đây là sự mầu nhiệm của Chúa, và
chỉ có Đức Cha biết mà thôi: “Về ngày và giờ đó, chẳng có ai
biết chi cả, thiên sứ trên trời hay là Con cũng vậy, song chỉ một mình Cha biết
mà thôi” (Ma-thi-ơ
24:36).
3/ ĐÀO TẠO
MÔN ĐỒ
Chúa Giê-su kêu gọi và đào tạo môn đồ để tiếp nối sứ mạng của Chúa trên
đất sau khi Ngài về trời. Kinh Thánh: “16Ngài đi dọc
theo mé biển Ga-li-lê, thấy Si-môn với Anh-rê, em người, đang thả lưới dưới biển;
vì hai người vốn làm nghề chài. 17Đức Chúa Giê-su bèn phán cùng
họ rằng: Hãy theo ta, và ta sẽ khiến các ngươi trở nên tay đánh lưới người. 18Tức
thì hai người bỏ chài lưới mà theo Ngài. 19Đi một đỗi xa xa,
Ngài thấy Gia-cơ, con Xê-bê-đê, với em là Giăng, đang vá lưới trong thuyền. 20Ngài
liền kêu hai người; thì họ để Xê-bê-đê, cha mình, ở lại trong thuyền với mấy
người làm thuê, mà theo Ngài” (Mác
1:16-20).
Trước
khi làm việc và thường xuyên có một việc làm Chúa Giê-su không quên đó là cầu
nguyện, như trước khi chọn 12 môn đồ Ngài cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời: “Trong
lúc đó, Đức Chúa Giê-su đi lên núi để cầu nguyện; và thức thâu đêm cầu nguyện Đức
Chúa Trời. Đến sáng ngày, Ngài đòi môn đồ đến, chọn mười hai người, gọi là
sứ đồ” (Lu-ca 6:12-13).
Ngài Đi và THẤY:
. “Ngài
đi dọc theo mé biển Ga-li-lê,
thấy Si-môn với Anh-rê, em
người, đang thả lưới dưới biển; vì hai người vốn làm nghề chài” (c.16).
. “Đi một đỗi
xa xa, Ngài thấy Gia-cơ, con Xê-bê-đê, với em là Giăng, đang vá lưới
trong thuyền” (c.19).
Động từ đi và thấy, cho thấy Chúa Giê-su không
nề hà vất vã, mệt nhọc để đi bộ, Ngài đi dọc
theo mé biển Ga-li-lê, Ngài đi một đỗi xa xa. Quang cảnh trời nước mênh mông,
vùng này tôi đoan chắc là tầm nhìn không bị che khuất nên Chúa thấy Si-môn và Anh-rê đang thả lưới dưới biển; với tốc độ của
người đi bộ Chúa Giê-su thấy Gia-cơ với em là Giăng, đang vá lưới trong thuyền!
Ngài KÊU GỌI:
. “Đức
Chúa Giê-su bèn phán cùng họ
rằng: Hãy theo ta,....”
(c.17a).
. “Ngài
liền kêu hai người;....”
(c.20).
Sự
kêu gọi này là một mạng lệnh: “Hãy Theo Ta”! Lời kêu gọi mạnh mẽ, xác định
một lệnh truyền. Đây không phải là một lời đề nghị suông; cũng không phải là một
lời khuyên... Mà là một mệnh lệnh! “Đi theo” hàm chứa ý niệm chịu dưới
quyền điều khiển của người kêu gọi đưa ra cho người được kêu gọi...; “và ta sẽ
khiến các ngươi trở nên tay đánh lưới người.” Một lời kêu gọi xác định cho người
được kêu gọi biết được đích đến của họ.
Mục
tiêu huấn luyện được đặt rõ ràng: Chúa Giê-su đã nêu lên rõ ràng về mục tiêu
đào tạo: “Ta sẽ khiến
các ngươi trở nên tay đánh lưới người.” (c.17b). Chúa Giê-su sẽ làm
cho các môn đệ của Ngài trở thành những “tay đánh lưới người”, đầy ơn của Chúa.
Chúa
Giê-su đào tạo môn đồ của Ngài:
Phương
cách Chúa Giê-su đào tạo các môn đệ: Phương cách đào tạo của Chúa là ĐI THEO CHÚA:
Chúa bảo, “Hãy theo ta,” (c.17a).” Chúa dùng phương
pháp thính thị (“thính – tai nghe”; “thị – mắt thấy”), để Ngài giáo dục môn đồ;
không những môn đồ nghe và thấy Chúa dạy, mà còn trực tiếp thấy một cách sống động.
Đây là một phương cách giáo dục rất khó, nếu người dạy không “chuyên môn, không
chuyên nghiệp” thì nhiều khi không thể giải quyết những tình huống khó, có thể
xảy ra khi nan đề đến đột ngột! Khi đi theo, các
môn đồ nhìn thấy, được nghe và ghi nhớ sau đó thuật lại những Lời dạy dỗ của
Chúa Giê-su cho người khác (nhớ và làm theo).
Chúa
Giê-su đưa môn đồ vào công trường của Ngài: Chúa
Giê-su kêu mười hai sứ đồ, bắt đầu sai đi từng
đôi. Ngài ban quyền phép trừ tà ma. Ngài
còn dặn: Đi đường đừng đem chi theo hết... chỉ
mang dép và đừng mặc hai áo; hễ nhà nào cho sẽ vào, ở đó, cho đến khi đi; nếu
chỗ nào người ta không chịu tiếp thì hãy đi khỏi đó. Công việc làm và kết
quả của việc vâng Lời Chúa ra đi là: Các sứ đồ đi ra, giảng cho người ta phải
ăn năn; đuổi nhiều ma quỉ, xức dầu cho nhiều kẻ bịnh và chữa cho được lành
(theo Mác 6:7-13)
Phân đoạn Kinh Thánh trên, cho thấy rằng, trước khi làm việc gì cho Chúa thì phải
qua các giai đoạn: Được Chúa kêu gọi (tuyển sinh), Ngài huấn luyện (đào tạo) và
cuối cùng là Chúa sai đi.
Còn
điều vô cùng quan trọng khác, đó là đi từng đôi để cầu nguyện cho nhau, cầu
thay khi người kia đang nói chuyện với thân hữu, vì cuộc chiến này là giành lấy
linh hồn tội nhân về cho Chúa, không phải là chiến đấu bởi thịt và huyết, bèn
là chiến đấu với các thần dữ từ mọi miền trên trời, Ê-phê-sô 6:12 chép rằng: “Vì
chúng ta đánh trận, chẳng phải cùng thịt và huyết, bèn là cùng chủ quyền, cùng
thế lực, cùng vua chúa của thế gian mờ tối nầy, cùng các thần dữ ở các miền
trên trời vậy.” Và Kinh Thánh cũng cho biết hai người hơn một người: “Hai người
hơn một, vì họ sẽ được công giá tốt về công việc mình. Nếu người này sa ngã,
thì người kia sẽ đỡ bạn mình lên; nhưng khốn thay cho kẻ ở một mình mà sa ngã,
không có ai đỡ mình lên!” (Truyền Đạo 4:9-10).
III. Phạm vi của sự cứu rỗi
Bản Thể của “Con Đức Chúa Trời”
mà Đức Chúa Giê-su mang lấy là là một vấn đề vô cùng hệ trọng. Vì nếu Ngài chẳng
phải là Đức Chúa Trời thì việc chịu chết của Ngài trên thập tự giá không có tác
dụng đền tội thay, mà chính Ngài là Đức Chúa Trời: “Ấy chính Ngài làm của lễ
chuộc tội lỗi chúng ta, không những vì tội lỗi chúng ta thôi đâu, mà cũng vì tội
lỗi cả thế gian nữa” (1Giăng 2:2). Và chỉ duy nhất Đức Chúa Trời mới là Đấng có
thể hoàn thành một công trình như thế: “Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương
Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì
chúng ta chịu chết” (Rô-ma 5:8). Đức Chúa Giê-su phải là Đức Chúa Trời thì cả
nhân loại, không phân biệt dân tộc, màu da, giàu, nghèo mới được cứu ra khỏi tội,
mới được đem vào sự sống đời đời và vào cuộc hòa giải với Đức Chúa Trời. Như vậy,
phạm vi của sự cứu rỗi gồm cá nhân và cộng đồng cả thế gian.
IV. Chúa Giê-su lên thập tự giá
Trong phần câu hỏi có ghi: “Đức Chúa Giê-su Christ Đấng cứu chuộc nhân loại, qua sự
chết của Ngài trên thập tự giá đây là công việc mà chính Ngài đã công bố: “Mọi
việc đã được trọn; rồi Ngài gục đầu mà trút linh hồn” (Giăng
19:30).” Ngài đã xem chính Ngài như của lễ hy sinh đời đời vì tội
lỗi của loài người. Hay nói cách khác thì Đức Chúa Giê-su Christ đã mua chuộc tất
cả loài người khỏi sự hủy diệt của tội lỗi bằng sự đổ huyết của Ngài.
Trong
33 năm tại thế, có 3 năm Ngài đi làm công việc của Ngài khi giáng thế làm người.
Ngài là Chiên Con của Đức Chúa Trời, là Đấng gánh lấy tội lỗi của thế gian bởi
phép báp-tem của Ngài và rồi đến ngày Ngài lên thập tự giá (Ma-thi-ơ 3:13-17).
Đấng Christ bày tỏ cho chúng ta rằng chính Ngài đã hy sinh như “Của Lễ Chiên
Con của chính chúng ta.” Bởi sự hy sinh chính mình Ngài cho tội lỗi của con người,
Ngài đã trả hết cái giá của sự cứu chuộc với Đức Chúa Trời vì dân sự của Ngài.
Trái ngược với sự dâng tế lễ tượng
trưng và lặp đi lặp lại của A-rôn và những thầy tế lễ khác trong Cựu ước, Đấng
Christ đã đến trong thế gian, gánh tội lỗi của thế gian trên thân thể Ngài qua
phép báp-tem mà Ngài đã nhận từ Giăng Báp-tít và Chúa Giê-su chết trên thập tự
giá, Ngài đã làm trọn mọi sự công chính của Đức Chúa Trời một lần đủ cả. Đó là
lý do Ngài đã chịu báp-tem và đã dâng mình làm tế lễ trọn vẹn trên thập tự giá,
như trong Hê-bơ-rơ 9:26 chép: “Hiện nay đến cuối cùng các thời đại, Ngài chỉ hiện
ra một lần, dâng mình làm tế lễ để cất tội lỗi đi.” Chúa Giê-su giáng thế để làm
sinh tế chuộc tội cho loài người, Kinh Thánh cho biết: “Và các con biết, Ngài
đã đến để xóa bỏ tội lỗi và trong Ngài không có tội lỗi.” (1 Giăng 3:5).
Những yếu tố nền tảng liên quan đến
ý nghĩa sự chuộc tội gồm những yếu tố sau: Bản tính của Đức Chúa Trời, Ngài là
Đấng Thánh khiết và tình yêu thương. Ngài không chấp nhận tội lỗi của con người
và chỉ có Ngài đủ năng quyền để cứu chuộc nhân loại qua Đức Chúa Giê-su. Vai trò của luật pháp, luật
pháp cho biết con người có tội không có khả năng thoát khỏi tội và qua Đức Chúa
Giê-su chết trên Thập tự, người tin mới được Ngài cứu chuộc. Tình trạng của
nhân loại, “Vì mọi người điều đã thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” (Rô ma 3:23).
Chỉ có Đức Chúa Giê-su là Đấng Trung bảo giữa Đức
Chúa Trời và con người và Ngài chuộc tội
cho chúng ta. Ngài là Đấng Christ, là Chúa Giê-su, là Đấng có thần tính
và nhân tính, Ngài là Ngôi Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa, mà cũng là Đức Chúa Trời.
Ngài là Đấng vô tội, sự chết của Ngài có giá trị cho những kẻ tin Ngài, dù Đấng
Christ chịu điều sỉ nhục bởi lằn roi của kẻ thù; đau đớn trên cây thập tự vì tội
lỗi của nhân loại. Đức Chúa Trời sai Con Ngài … sanh ra dưới luật pháp, để chuộc những người dưới luật pháp” (Ga-la-ti 4:5).
So sánh với hệ thống tế lễ trong
Cựu ước: Trong Cựu Ước các của lễ dâng lên bàn thờ là của lễ
dâng lên Đức Chúa Trời xin sự tha thứ. Khi dâng sinh tế và nó sẽ chết thay cho người phạm tội (Lê-vi
Ký 1:3-4). Hành động trình dâng và đặt tay lên đầu con sinh là sự xưng tội của
tội nhân. Việc đặt tay tượng trưng sự chuyển tội từ tội nhân sang con sinh. Sau
đó của dâng mới được thầy tế lễ tiếp nhận.

Ý Nghĩa của
việc Chúa Giê-su lên thập tự giá và lời kết: Trong Cơ Đốc giáo, thập tự giá là
giao điểm tình yêu của Đức Chúa Trời và công nghĩa của Ngài. Chúa Giê-su Christ
là Chiên Con của Đức Chúa Trời, Đấng cất đi tội lỗi của thế gian đi (Giăng
1:29). Do sự cám dỗ của Sa-tan (Sáng-thế Ký 3:1-5), A-đam và Ê-va đã phạm tội
và bị xa rời khỏi ân điển của Đức Chúa
Trời (Sáng. 3:21-24). Đức Chúa Cha đã sai Con một của Ngài vào thế gian để trở
thành con người xác thịt, và là Đấng Cứu Chuộc cho loài người tội lỗi. Chúa
Giê-su sinh ra bởi một nữ đồng trinh (Lu-ca 1:26-38). Ngài vô tội, bởi Ngài là Con
Đức Chúa Trời, “ Vì chúng ta không có thầy tế lễ thượng phẩm chẳng có thể cảm
thương sự yếu đuối chúng ta, bèn có một thầy tế lễ bị thử thách trong mọi việc
cũng như chúng ta, song chẳng phạm tội” (Hê-bơ-rơ 4:15), Ngài có thể cung ứng sự
hy sinh vô giá mà Đức Chúa Trời đòi hỏi. Công lý của Đức Chúa Trời đòi hỏi sự
phán xét và đoán phạt tội lỗi: “Nầy, mọi linh hồn đều thuộc về ta; linh hồn của
cha cũng như linh hồn của con, đều thuộc về ta; linh hồn nào phạm tội thì sẽ chết”
(Ê-xê-chi-ên 18:4). Tình yêu của Đức Chúa Trời đã cảm động Ngài ban Con độc
sinh của Ngài để làm của lễ chuộc tội (Giăng 3:16).
Cái chết trên thập giá của Đức Chúa
Giê-su là cớ vấp phạm cho người Do-thái, và là sự điên rồ đối với dân ngoại:
“Thì chúng ta giảng Đấng Christ bị đóng đinh trên cây thập tự, là sự người
Giu-đa lấy làm gương xấu, dân ngoại cho là rồ dại” (1Cô-rinh-tô 1:23). Nhưng đối
với những kẻ được tuyển chọn, đó là quyền năng và sự khôn ngoan của Chúa “Song
le, về những người được gọi, bất luận người Giu-đa hay người Gờ-réc, thì Đấng
Christ là quyền phép của Đức Chúa Trời và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời” (1Cô.
1:24). Đức Chúa Trời bày tỏ sự hoàn tất sứ mạng của Chúa Giê-su: “Ta từ Cha xuống
trần gian, rồi sẽ rời trần gian về với Cha” (Giăng 16:28)./.
GS. NGỌC HUỆ
(thevbi.net)
“7 Ngài bèn kêu mười hai sứ đồ, bắt đầu
sai đi từng đôi, ban quyền phép trừ tà ma. 8 Ngài truyền
cho sứ đồ đi đường đừng đem chi theo hết, hoặc bánh, hoặc bao, hoặc tiền bạc
trong dây lưng, chỉ đem một cây gậy mà thôi; 9 chỉ mang
dép, đừng mặc hai áo. 10 Ngài phán cùng sứ đồ rằng: Hễ nhà
nào các ngươi sẽ vào, hãy cứ ở đó, cho đến khi đi. 11Nếu có chỗ
nào, người ta không chịu tiếp các ngươi, và cũng không nghe các ngươi nữa, thì
hãy đi khỏi đó, và phủi bụi đã dính chân mình, để làm chứng cho họ. 12 Vậy,
các sứ đồ đi ra, giảng cho người ta phải ăn năn; 13 đuổi
nhiều ma quỉ, xức dầu cho nhiều kẻ bịnh và chữa cho được lành” (Mác 6:7-13).