GS. PHẠM NGỌC HUỆ
Tín ngưỡng thờ kính tổ
tiên vốn là một tín ngưỡng lâu đời của người Việt, đó cũng là một yếu tố văn
hoá của cư dân thiên về tình cảm và trực quan hơn là lý trí và suy luận. Ðồng
thời, thờ kính tổ tiên ở Việt Nam ngày càng được củng cố thêm bằng những cuộc
giao thoa văn hoá. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có một quá trình hình thành, có
một mảnh đất phát triển khá lý tưởng, để nó có thể trở thành một bản sắc văn
hoá không thể thiếu của người Việt Nam.
Người theo Tín ngưỡng
này rất xem trọng và thiêng liêng hóa người đã qua đời. Việc cúng giỗ và hôn lễ
còn là biểu hiện một mối dây liên đới mật thiết giữa tổ tiên (người đã khuất)
và con cháu (người còn sống), là điểm gặp gỡ giữa vũ trụ hữu hình và thế giới
linh thiêng vô hình. Hồn tổ tiên vẫn lui về với gia đình khi con cháu đứng
trước bài vị để lễ gia tiên, thắp hương tưởng niệm, vì tin rằng tổ tiên vẫn
hiện hữu bên cạnh họ và có thể chi phối mọi sinh hoạt lớn bé trong đại gia đình
tông tộc. Ðồng thời, tổ tiên cũng là mối dây liên kết mọi thành viên trong cùng
một dòng tộc, dòng tộc nào càng quan tâm chu đáo với tổ tiên thì dòng tộc đó
càng gắn bó với nhau chặt chẽ hơn. Theo truyền thống, dân Việt thờ cúng tổ tiên
là hành động tưởng nhớ người thân đã qua đời, cũng có nghĩa là thực hành đạo
hiếu, để con cháu không quên cội nguồn, về sau người ta thêm vào sự thờ phượng
và cúng bái.
Thực hành đạo hiếu của
người theo Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là
phù hợp với thực hành đạo hiếu của Cơ
Đốc giáo. Tuy nhiên, theo
Cơ Đốc giáo, để trở nên người con thảo hiếu, là phải
lo lắng, chăm
sóc ông bà, cha mẹ lúc còn tại thế. Tổ tiên cũng là con người,
đều
là tạo vật của Đức Chúa Trời nên không có quyền ban phước hay
giáng họa. Vì
thế, chỉ kính chớ không nên thờ.
TRÍCH TRONG Chứng đạo trong bối
cảnh Việt nam
NGỌC
HUỆ - DIỆP LỤC TỐ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.